Từ những con đê giữ nước đến nền quản trị rủi ro hiện đại: Dấu ấn của Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai

Chủ nhật, 9/11/2025, 21:56 (GMT+7)
logo Trong chuỗi bài viết kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường điện tử trân trọng giới thiệu bài viết: “Từ những con đê giữ nước đến nền quản trị rủi ro hiện đại: Dấu ấn của Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai” - câu chuyện về hành trình 80 năm kiên cường và sáng tạo của những người làm công tác phòng, chống thiên tai. Bằng trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm, họ đã góp phần xây dựng nền quản lý rủi ro thiên tai hiện đại, chủ động và nhân văn, giữ bình yên cho nhân dân và phát triển bền vững cho đất nước.
anh-2-pctt_1762680128.webp
Lực lượng chức năng và Lãnh đạo Bộ cùng các cán bộ Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai kiểm tra, chỉ đạo ứng phó sạt lở bờ sông tại khu vực miền núi phía Bắc trong mùa mưa lũ. Sự có mặt kịp thời của các lực lượng tại hiện trường thể hiện tinh thần chủ động, trách nhiệm và phối hợp “bốn tại chỗ” trong công tác phòng, chống thiên tai.

Giữa bão giông, có những con người lặng thầm giữ bình yên

Trên dải đất hình chữ S, nơi bốn mùa nắng gió giao hòa với sóng nước, người Việt Nam đã sống cùng thiên nhiên từ ngàn đời. Từ huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh, truyền thống “chống lụt giữ làng” đã trở thành mạch nguồn bền bỉ trong tâm thức dân tộc.

Từ Ủy ban Trung ương Hộ đê đầu tiên năm 1946, trải qua tám thập kỷ gian khó và trưởng thành, ngành quản lý đê điều và phòng chống thiên tai Việt Nam đã xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro vững vàng. Từ những chiếc xẻng đất, tấm phên tre thời kháng chiến, đến hôm nay là hệ thống hạ tầng an toàn, công nghệ số, và chiến lược quốc gia phòng, chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn 2050 - đó là chặng đường kết tinh tâm huyết, trí tuệ và cống hiến của hàng vạn con người.

Trong hành trình ấy, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường chính là cơ quan nòng cốt - người “chỉ huy thầm lặng” của cuộc chiến không tiếng súng giữa con người và thiên nhiên.

thu-truong-bo-nong-nghiep-va-moi-truong-nguyen-hoang-hiep-chu-tri-cuoc-hop-ung-pho-voi-bao-wipha-chieu-18-7_1762681371.webp
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hoàng Hiệp chủ trì cuộc họp ứng phó với bão Wipha chiều 18/7/2025

Hiện đại hóa - Chuyên nghiệp hóa - Chuyển đổi số: Dấu ấn của giai đoạn 2016- 2025

Giai đoạn 2016-2025 đánh dấu bước chuyển mình toàn diện của Việt Nam trong công tác phòng, chống thiên tai. Dưới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) và nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã chủ trì hàng loạt đổi mới thể chế quan trọng: (1) Luật sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều (2020) - hợp nhất quản lý rủi ro và bảo vệ hạ tầng an toàn quốc gia. (2) Luật Phòng thủ dân sự (2023) - lần đầu tiên quy định thống nhất về phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai, nâng tầm công tác này thành một bộ phận của chiến lược quốc gia về an ninh con người. (3) Chiến lược Quốc gia về Phòng, chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn 2050, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2021, xác định mục tiêu “giảm thiểu thiệt hại, chủ động thích ứng, bảo vệ tính mạng và sinh kế của nhân dân”. Cùng với đó là Chiến lược phát triển hệ thống đê điều, hồ chứa và cơ sở hạ tầng phòng chống thiên tai hiện đại, đảm bảo hài hòa giữa an toàn dân sinh, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường.

Nếu như cách đây 70 năm, người dân Bắc Bộ phải “lấy thân mình làm đê”, thì hôm nay, đất nước đã có 9.690 km đê sông và đê biển, 1.700 cống qua đê, cùng 26.000 km đê bao và bờ bao chống lũ, chống xâm mặn. Hàng loạt công trình lớn được Bộ Nông nghiệp và Môi trường chỉ đạo đầu tư, nâng cấp: hệ thống đê sông Hồng, đê biển Nam Định - Thái Bình, dự án Cái Lớn - Cái Bé ở đồng bằng sông Cửu Long, các hồ thủy lợi trọng điểm như Dầu Tiếng, Kẻ Gỗ, Núi Cốc, Tả Trạch, Krông Pách Thượng…

Toàn quốc hiện có 6.700 hồ chứa thủy lợi, 400 hồ thủy điện với dung tích phòng lũ hàng chục tỷ m³; 79 khu neo đậu tránh trú bão đủ chỗ cho 50.000 tàu thuyền. Những con số ấy không chỉ thể hiện năng lực hạ tầng, mà còn là dấu ấn trí tuệ và lao động bền bỉ của đội ngũ cán bộ kỹ sư ngành Nông nghiệp và Môi trường, những người “gác đê” của thời đại mới.

Trong kỷ nguyên công nghệ 4.0, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã tiên phong đưa công nghệ số vào công tác phòng, chống thiên tai: (1) Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thiên tai (DMIS), kết nối thông tin từ 63 tỉnh, thành. (2) Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong dự báo lũ quét, sạt lở đất, cảnh báo sớm bão và xâm nhập mặn. (3) Vận hành 215 trạm khí tượng, 2.599 trạm mưa tự động, 426 trạm thủy văn và 177 camera giám sát đê điều, hồ chứa. (4) Triển khai bản đồ WebGIS phòng chống thiên tai, hệ thống giám sát mực nước sông, hồ, mưa, triều cường theo thời gian thực.

Một trong những bước tiến nổi bật là hệ thống cảnh báo xả lũ hạ du sông Hương (Thừa Thiên - Huế) được hoàn thành năm 2022 với sự hỗ trợ của JICA, giúp người dân nhận cảnh báo qua điện thoại, nâng cao khả năng tự ứng phó. Song song, Bộ cũng triển khai ứng dụng Zalo cảnh báo thiên tai, gửi hơn 700 triệu tin nhắn SMS và thông báo điện tử trong các đợt bão, lũ, hạn mặn từ 2020 đến 2024.

Một trong những thành tựu nhân văn nhất là sự hình thành lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai cấp xã, với hơn 800.000 người trên toàn quốc. Đây là kết quả trực tiếp của Đề án Nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng do Bộ chủ trì triển khai từ năm 2019.

Từ miền núi Bắc Kạn đến đồng bằng Cà Mau, họ là những người dân, đoàn viên, giáo viên, cựu chiến binh… được huấn luyện kỹ năng sơ tán, cứu hộ, chỉ huy “4 tại chỗ”. Trong mỗi cơn bão, chính họ là người đầu tiên đến, là người cuối cùng rời đi - những “chiến sĩ áo nâu” bảo vệ xóm làng khỏi nước lũ.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã thành lập Trung tâm Quốc gia Điều hành Phòng, chống thiên tai, cơ quan đầu mối điều phối toàn quốc, giúp thống nhất chỉ huy, huy động nguồn lực và kết nối thông tin 24/7.

561415477_1239853254843561_9076270749190929732_n_1762681080.webp
Ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số đang trở thành hướng đi trọng tâm trong quản lý rủi ro thiên tai. Lễ ký kết hợp tác giữa Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và Nền tảng Zalo giai đoạn 2026-2028 đánh dấu bước tiến quan trọng trên hành trình xây dựng một Việt Nam an toàn, chủ động và bền vững trước thiên tai.

Với vai trò cơ quan chuyên môn của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai đang từng bước hiện thực hóa mục tiêu “quản lý thiên tai bằng dữ liệu và công nghệ số”, đưa Việt Nam từ thế chủ động ứng phó sang giai đoạn quản trị rủi ro toàn diện.

Khát vọng Việt Nam an toàn và bền vững

Bước vào kỷ nguyên phát triển mới, Việt Nam đặt mục tiêu không chỉ “chống chịu” mà phải sống an toàn cùng thiên tai, biến quản trị rủi ro thành một trụ cột của phát triển bền vững. Bối cảnh toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thời tiết cực đoan ngày càng phức tạp buộc chúng ta xem phòng ngừa - ứng phó - phục hồi như một chiến lược quốc gia, dài hạn và cấp bách, gắn chặt với an ninh lương thực, hạ tầng và sinh kế của người dân.

Khát vọng an toàn bắt đầu từ bộ máy tinh gọn, phối hợp hiệu quả. Định hướng sắp xếp tổ chức nhấn mạnh tính thống nhất, phân công, phân cấp rõ ràng, đào tạo kỹ năng quản lý rủi ro cho cán bộ (đặc biệt cấp xã), diễn tập thường xuyên theo phương châm “4 tại chỗ”, đồng thời củng cố lực lượng cứu hộ chuyên trách (nhất là trên biển).
Trên bình diện pháp lý, Việt Nam đã hoàn thiện hành lang thể chế, đề cao vai trò cộng đồng và các tổ chức xã hội; Chiến lược quốc gia Phòng chống thiên tai đến 2030, tầm nhìn 2050 đặt mục tiêu giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản, gắn đổi mới công nghệ với hợp tác quốc tế như những trụ cột thực thi.

Mục tiêu trung tâm của giai đoạn tới là nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo kịp thời và tin cậy, đặc biệt với bão mạnh, lũ quét, sạt lở, hạn - mặn. Nhiệm vụ đi kèm gồm: hiện đại hóa quan trắc đa tầng (vệ tinh, radar, mặt đất), xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đầy đủ, khoa học, hiện đại, tăng đầu tư cho nghiên cứu cơ bản và ứng dụng trí tuệ nhân tạo để hỗ trợ phân tích - dự báo.

Ở tầng triển khai, các chương trình KH&CN và chuyển đổi số đã xây dựng SmartMET, WebGIS cảnh báo, mô hình AI dự báo xoáy thuận, sóng, nước dâng, mưa cực ngắn, xâm nhập mặn và ngập triều đô thị, tạo nền cho vận hành dựa trên dữ liệu thời gian thực.

Khát vọng an toàn không thể thiếu nền hạ tầng phòng chống thiên tai đồng bộ: hệ thống đê điều, hồ chứa, cống - kè, đê bao, khu neo đậu, hành lang thoát lũ… Việc tiếp tục nâng cấp - bảo vệ các tuyến đê sông, đê biển; đầu tư công trình ngăn mặn, giữ ngọt ở đồng bằng; và hoàn thiện trang thiết bị giám sát, định vị cho tàu thuyền là các hướng đi đã được khẳng định, qua đó bảo vệ hạ du lớn và không gian sản xuất nông nghiệp chiến lược như ĐBSCL.

Tầm nhìn mới tôn vinh cộng đồng làm trung tâm: từ giáo dục, truyền thông đa nền tảng, đến thiết lập lực lượng xung kích cấp xã - “lá chắn sống” phản ứng nhanh ngay giờ đầu. Việc huấn luyện, đưa phòng chống thiên tai vào chương trình học, và nhắn tin cảnh báo đến thuê bao trong vùng nguy cơ (hàng chục triệu SMS cùng hàng trăm triệu thông báo Zalo) đã tạo nên “hạ tầng mềm” của xã hội an toàn. Đến nay, các địa phương đã thành lập lực lượng xung kích cấp xã với trên 800.000 thành viên, chứng minh hiệu quả qua thực tiễn khi xử lý tình huống khẩn cấp theo “4 tại chỗ”.

Một Việt Nam an toàn là Việt Nam kết nối, cơ chế huy động nguồn lực tư nhân, doanh nghiệp, rà soát tiêu chuẩn - quy chuẩn theo rủi ro vùng miền, cùng lúc tăng cường phối hợp liên ngành và giữa các cấp chính quyền.
Tầm quốc tế, Văn phòng Đối tác Giảm nhẹ rủi ro thiên tai quy tụ 29 tổ chức, thúc đẩy chia sẻ thông tin - công nghệ - tài chính; Việt Nam chủ động trong Khung Sendai, AADMER, và làm việc chặt chẽ với WB, ADB, Liên Hợp Quốc, JICA, GIZ… để tranh thủ nguồn lực cho các trọng điểm như lũ quét - sạt lở, sạt lở bờ sông/bờ biển, quản lý lũ - hạn - mặn ở ĐBSCL. Trong “ngoại giao cứu hộ”, Việt Nam đã cử lực lượng sang Thổ Nhĩ Kỳ và Myanmar hỗ trợ sau động đất (2023, 2025), khẳng định vị thế và trách nhiệm trên trường quốc tế về phòng chống thiên tai.

Mục tiêu không dừng ở cứu trợ khẩn cấp, mà là phục hồi sinh kế gắn xây dựng nông thôn mới, tái thiết nhanh, bền, bao trùm tại các “điểm nóng” sạt lở, lũ quét, bão mạnh; đồng thời tiếp tục huy động viện trợ quốc tế hiệu quả để rút ngắn thời gian khôi phục sau thiên tai. Khát vọng Việt Nam an toàn vì thế không phải khẩu hiệu, mà là chương trình hành động cụ thể: thể chế thống nhất, dữ liệu hiện đại, hạ tầng kiên cường, cộng đồng chủ động, hợp tác rộng mở. Khi những “mảnh ghép” này khớp với nhau, chúng ta không chỉ giảm thiểu tổn thất, mà còn tạo lợi thế phát triển mới cho nông nghiệp, đô thị và kinh tế xanh, một tương lai an toàn, bền vững và thịnh vượng cho mọi người dân.

80 năm trước, giữa những con nước dữ, ông cha ta đã đứng lên “đắp đê giữ nước, giữ làng”. Ngày nay, thế hệ cán bộ ngành Nông nghiệp và Môi trường tiếp bước truyền thống ấy bằng khoa học, trí tuệ và trái tim. Từ văn phòng điều hành trung tâm, họ nhìn thấy mực nước sông Hồng dâng lên từng centimet trên màn hình; từ công trường ngoài đê, họ nghe tiếng sóng biển vỗ vào kè đá; và trong mỗi hành động của họ là trách nhiệm với nhân dân, với đất nước. “Phòng, chống thiên tai là giữ lấy sự sống, giữ lấy tương lai”, đó là lời nhắn nhủ không chỉ của một thế hệ cán bộ, mà của cả một ngành - ngành đã đi qua bão giông, và vẫn đang bền bỉ gìn giữ bình yên cho Tổ quốc.

Hồng Minh