Vai trò nổi bật của ngành Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang

Thứ ba, 26/7/2022, 16:12 (GMT+7)
logo An Giang là một tỉnh miền Tây Nam Bộ, thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí chiến lược về quốc phòng và an ninh, diện tích tự nhiên 353.676 ha, trong đó có 279.996 ha đất sản xuất nông nghiệp; là tỉnh vừa có đồng bằng, vừa có núi và có đường biên giới dài 104 km.

Vai trò nổi bật của ngành Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang

Trong hai thập kỷ qua, ngành TN&MT tỉnh An Giang đã tích cực triển khai bằng nhiều giải pháp để đưa các quy định pháp luật đất đai, môi trường, TNN, khoáng sản, đa dạng sinh học, KTTV,... đến với tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh. Để đưa pháp luật của Ngành đi vào cuộc sống, riêng trong giai đoạn 2010 - 2020 ngành TN&MT đã tổ chức hơn 30 hội nghị, 10 hội thảo, 68 lớp tập huấn với sự tham dự của hơn 21.500 lượt đại biểu; thực hiện nhiều chuyên mục và phóng sự trên Đài Phát thanh - Truyền hình An Giang; đăng tin, bài trên Báo An Giang; phát hành các tài liệu tuyên truyền (in tờ bướm, tờ rơi,...) để người dân, doanh nghiệp và tổ chức nắm được những quy định cơ bản của pháp luật trong lĩnh vực quản lý TN&MT. Ngành TN&MT đã ký kết hợp tác với 14 cơ quan, đoàn thể và tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn để tuyên truyền cho từng đối tượng cụ thể (như: Phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên,..), thực hiện 18 điểm “Đổi bọc ni - lông lấy tập, viết”, đã xây dựng và nhân rộng 33 mô hình như: Mô hình “khu dân cư thân thiện môi trường”,“Phum, sóc xanh - sạch - đẹp”,... UBND các huyện, thị, thành đã xây dựng kế hoạch chi tiết triển khai việc tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật đất đai và BVMT bằng nhiều hình thức, chú trọng việc tuyên truyền qua phát thanh cơ sở, lồng ghép nội dung tuyên truyền pháp luật về quản lý tài nguyên và BVMT tại các buổi họp khóm, ấp, sinh hoạt cộng đồng,... Từ đó, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn đã hiểu, thực hiện và chấp hành tốt các quy định của ngành TN&MT.

Công tác QLNN về TN&MT luôn là vấn đề quan trọng đóng góp nguồn lực cho tăng trưởng và giải quyết ổn định các vấn đề về xã hội. Tỉnh ủy, UBND tỉnh An Giang rất quan tâm lĩnh vực này và luôn có những chỉ đạo kịp thời để khai thác tốt nguồn tài nguyên nhưng phải đảm bảo yếu tố BVMT và phát triển bền vững. Trong đó, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành các Chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; triển khai Nghị quyết số 41-NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH; Kết luận số 02-KL/TW về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Ban Thường vụ Tỉnh ủy cũng đã ban hành Chỉ thị số 32-CT/TU về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước; Kế hoạch số 62-KH/TU của BCH Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng (Khóa XI) về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT. Qua đó, các lĩnh vực TN&MT đạt được những thành tích nổi bật.

 Đối với lĩnh vực đất đai: Tài nguyên đất được khai thác triệt để, toàn bộ diện tích tự nhiên đều đưa vào khai thác sử dụng, tỉnh trở thành vựa lúa lớn nhất của vùng đóng góp gần 1/10 sản lượng lương thực cho quốc gia (năm 1986 đất chưa sử dụng chiếm gần 9% diện tích tự nhiên cộng với 3% diện tích sản xuất bị bỏ hoang, đến nay hầu như không còn đất chưa sử dụng).

Vai trò nổi bật của ngành Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang

Công tác quản lý đất đai theo quy quy hoạch đã đi vào nền nếp, cơ cấu sử dụng đất được chuyển đổi hợp lý trong từng giai đoạn góp phần tạo chuyển biến tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Công tác cấp giấy chứng nhận cho hộ gia đình, cá nhân tăng từ dưới 60% trước năm 2003 lên gần 95%, tạo điều kiện cho các tổ chức, hộ gia đình khai thác, sử dụng hiệu quả, huy động vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, thông qua việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất. Hồ sơ địa chính từng bước được thiết lập theo hướng chính quy, hiện đại đáp ứng yêu cầu quản lý về đất đai. Khuyến khích nông hộ tích tụ ruộng đất, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn, phát triển kinh tế trang trại, giai đoạn này có khoảng 1,8% số hộ có diện tích từ 3 ha trở lên. Tỉnh cũng chú trọng, duy trì, liên tục hoàn thiện cơ sở dữ liệu địa chính từ năm 2006 đến nay, từ đó, trên 90% diện tích đã được đo đạc, xác lập ranh giới thửa đất theo hệ tọa độ chính quy và dự kiến đạt 100% trước năm 2024, làm nền tảng cho việc quản lý đất đai bằng công nghệ hiện đại, trên môi trường số. Cân đối đầy đủ quỹ đất cho các mục tiêu phát triển KT-XH, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển dân cư, xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, kêu gọi đầu tư, an ninh lương thực và quốc phòng biên giới. Đất đai trở thành nguồn thu quan trọng, mức đóng góp của đất đai ngày càng tăng qua các năm, nay đạt xấp xỉ 10% tổng nguồn thu ngân sách.

Đối với công tác BVMT: Ý thức trách nhiệm BVMT của các ngành, các cấp, người dân được nâng lên, mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường được kiểm soát duy trì trong tiêu chuẩn cho phép (từ 0,2 đến 0,5 lần), tỷ lệ thu gom, xử lý rác sinh hoạt đạt 65% (tăng thêm 19% so với năm 2015), tỷ lệ chất thải nguy hại thu gom xử lý tăng từ 97% lên 99% , duy trì tỷ lệ thu gom xử lý chất thải nguy hại y tế 100%. Công tác xử lý ô nhiễm môi trường đạt kết quả khả quan, trong kỳ đã xử lý được 193/246 cơ sở, khu điểm ô nhiễm (giảm được 73,1%); xử lý triệt để 18/21 cơ sở, khu điểm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (giảm được 85,71%). Công tác kiểm soát môi trường được chú trọng, quan trắc thường xuyên. BVMT trong nông nghiệp đã được xã hội quan tâm hơn, triển khai nhiều giải pháp để nông dân vệ sinh đồng ruộng thu gom chai lọ thuốc bảo vệ thực vật. Tỉnh cũng kiên quyết không cho triển khai các dự án có nguy cơ ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến cộng đồng.

Công tác quan trắc giám sát, cảnh báo chất lượng môi trường, xâm nhập mặn được quan tâm và tích cực đầu tư, nâng cấp các trạm quan trắc tự động liên tục nước mặt và không khí. Tỉnh đã đầu tư xây dựng 11 trạm quan trắc nước mặt và 1 trạm quan trắc không tự động, liên tục và tiếp tục đầu tư một số trạm để quan trắc nước mặt xuyên biên giới; thực hiện quan trắc môi trường nước liên tục tự động và chuẩn bị hạ tầng truyền, nhận số liệu quan trắc tự động liên tục để kết nối với Tổng cục Môi trường. Cơ sở hạ tầng BVMT của các khu, cụm công nghiệp, đô thị dần được đầu tư đồng bộ: 50% KCN, 33,3% khu đô thị có hệ thống xử lý nước thải chất thải đạt tiêu chuẩn, các KCN và các cơ sở sản xuất có lưu lượng nước thải trên 1.000 m3/ngày đều đã thực hiện quan trắc môi trường tự động, liên tục.

Thực hiện Luật Khoáng sản: Tỉnh An Giang đã tổ chức tìm kiếm và xác định có khoảng 107 điểm khoáng sản (gồm 3 nhóm chính là khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại và nước khoáng). Tỉnh đưa 3 loại khoáng sản không kim loại gồm: Đá xây dựng thông thường, cát xây dựng - san lấp và sét làm gạch ngói vào quy hoạch khai thác phục vụ nhu cầu xây dựng của tỉnh. Đồng thời, đã lập điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản tỉnh An Giang giai đoạn 2008-2020, định hướng đến năm 2030 đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 143/QĐ-UBND, tỉnh An Giang đưa vào quy hoạch đối với 3 loại khoáng sản: Đá làm vật liệu xây dựng thông thường, trữ lượng được quy hoạch 25 triệu m3 phục vụ cho xây dựng công trình và hạ tầng giao thông; cát làm vật liệu xây dựng thông thường, trữ lượng được quy hoạch 56 triệu m3, chất lượng cát đáp ứng cho xây dựng và vật liệu san lấp; sét làm vật liệu xây dựng thông thường, trữ lượng được quy hoạch 37 triệu m3. Hiện nay, Tỉnh chủ yếu cấp phép cho khai thác đá và cát làm vật liệu xây dựng thông thường để phục vụ cho các công trình trong và ngoài tỉnh.

Trong kỳ, tỉnh phê duyệt 42 khu vực cấm và tạm thời cấm hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh, tổng diện tích là 6.918,48 ha liên quan đến các diện tích đất thuộc khu vực di tích lịch sử - văn hóa; đất dành cho mục đích quốc phòng và an ninh; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ kết hợp với QP-AN. Trên cơ sở khu vực cấm, tạm thời cấm và phương án bảo vệ khoáng sản chưa khai thác các huyện trong thời gian qua xã xây dựng kế hoạch kiểm tra, qua đó phát hiện, xử lý kịp thời đối với các hoạt động KTKS trái phép, góp phần giảm thiểu các điểm nóng trên địa bàn. Đồng thời, Tỉnh cũng đã ban hành Phương án bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn tỉnh nhằm tăng cường hiệu lực QLNN trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, đặc biệt công tác bảo vệ có hiệu quả tài nguyên khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn tỉnh; ngăn chặn, xử lý các hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản trái phép, BVMT, sinh thái, đảm bảo an ninh trật tự trong khu vực.

Thực hiện Nghị định số 22/2012/NĐ-CP, Tỉnh đã thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản 3 khu mỏ, công tác đấu giá đảm bảo tính công khai, minh bạch, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước gấp nhiều lần. Ngoài ra, hiện nay Tỉnh đã ứng dụng công nghệ số để giám sát hoạt động khai thác cát bằng việc triển khai lắp đặt thiết bị giám sát hành trình đối với các doanh nghiệp được cấp phép khai thác cát, đảm bảo việc khai thác đúng phạm vi, đúng thời gian theo quy định.

Thủ tục hành chính ngày càng chuyển biến tốt, đột phá về giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp bằng việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin,… thời gian giải quyết được rút ngắn hơn quy định của trung ương (giảm từ 20 đến 30%), thủ tục, hồ sơ của doanh nghiệp được giải quyết kịp thời, đúng hạn theo quy định; đối với hộ gia đình, cá nhân tỷ lệ trễ hẹn hiện nay giảm xuống dưới 0,4% (tỷ lệ hồ sơ trễ hẹn giai đoạn trước 30-40%). Đây là đóng góp rất quan trọng cho việc tăng điểm các chỉ số PCI, PAPI và chỉ số cải cách hành chính của tỉnh.

Đồng thời, tỉnh An Giang  đã tổ chức nhiều cuộc đối thoại với doanh nghiệp để từng bước tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các tổ chức, cá nhân hoạt động. Ngành đã thực hiện hiệu quả việc xây dựng, ban hành các văn bản theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về TN&MT; thực hiện cải cách hành chính, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, các dịch vụ công trực tuyến; kiện toàn tổ chức, bộ máy; thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn thư, khiếu nại tố cáo và những vấn đề bất cập, nổi cộm; Bộ TN&MT trao, tặng cho hơn 200 cá nhân kỷ niệm chương vì sự nghiệp ngành TN&MT; 2 Cờ thi đua Bộ TN&MT, 2 Bằng khen Thủ tướng Chính phủ, 1 gương điển hình tiên tiến giai đoạn 2015 - 2020; hơn 100 cá nhân và tập thể đạt nhiều thành tích khen thưởng của Bộ TN&MT.

Với những kết quả đạt được trong 20 năm qua, ngành TN&MT đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của tỉnh và khu vực ĐBSCL. Những kết quả này cũng là tiền đề quan trọng để ngành TN&MT thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm trong những năm tiếp theo, đặc biệt triển khai có hiệu quả các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, chương trình của tỉnh ủy, UBND tỉnh giao.

TÔ HOÀNG MÔN

Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường