Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp cấp huyện: Trường hợp nghiên cứu tỉnh Tây Ninh

Chủ nhật, 31/10/2021, 11:01 (GMT+7)
logo Mục đích của việc xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững là để đánh giá, đo lường và so sánh tính bền vững trong việc sử dụng đất nông nghiệp (SDĐNN) các huyện trong tỉnh với nhau. Từ kết quả đó, có thể đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả về KT-XH cũng như môi trường và định hướng SDĐNN ở hiện tại và cả tương lai. Bài báo đưa ra bộ chỉ thị phục vụ cho việc đánh giá tính bền vững trong SDĐNN cấp huyện, áp dụng phương pháp đa tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng để sàng lọc từng chỉ thị đáp ứng với mục tiêu nghiên cứu.

1. Mở đầu

Tây Ninh là một tỉnh Đông Nam Bộ, có địa hình tương đối bằng phẳng nên rất hợp để phát triển kinh tế nông nghiệp, trao đổi hàng hóa và cũng tạo cho tỉnh một sức ép rất lớn là phải cạnh tranh về xuất khẩu và phải bảo vệ được tài nguyên đất cũng như môi trường trong tương lai. Vì vậy, để giải quyết bài toán hài hòa mối quan hệ KT-XH và môi trường trong SDĐNN, bài báo đặt ra các vấn đề nghiên cứu như: Đánh giá tính bền vững trong SDĐNN bằng công cụ nào? Đo lường tính bền vững trong SDĐNN bằng tiêu chí nào? Quy mô đánh giá tính bền vững trong SDĐNN nên đánh giá theo quy mô nào? Cấp tỉnh, cấp huyện hay nông hộ, làm sao so sánh giữa các địa phương?. Để giải quyết các vấn đề trên, tác giả nghiên cứu xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong SDĐNN cấp huyện, trên địa bàn tỉnh Tây Ninh là rất cần thiết.

2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp điều tra thu thập thông tin, tài liệu: Thu thập các thông tin, tài liệu từ các nước có điều kiện tương tự Việt Nam, văn bản của Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT và các bộ có liên quan, các sở, ban, ngành, các đề tài dự án có liên quan ở các Viện nghiên cứu..., kết hợp đi điều tra, phỏng vấn tình hình sử dụng đất có ảnh hưởng đến KT-XH&MT trên địa bàn thông qua các mẫu phiếu.

Phương pháp chuyên gia: Thông qua việc gửi báo cáo, dữ liệu, bộ chỉ thị liên quan đến các chuyên gia để xin ý kiến góp ý, tham khảo ý kiến của các chuyên gia về KT-XH, khoa học đất và cả lĩnh vực môi trường thuộc các Viện, Cục, Sở, Trường đại học, cán bộ có thâm niên công tác chuyên môn.

Phương pháp tiếp cận mô hình khung ma trận: Áp lực - Tình trạng - Phản hồi (PSR) và Động lực - Áp lực - Hiện trạng - Tác động - Đáp ứng (DPSIR). Cách tiếp cận này đưa ra các quan hệ nhân quả của một hoàn cảnh môi trường trong sử dụng đất nông nghiệp và tác động của các hành động cá nhân và xã hội lên môi trường.

Phương pháp đa tiêu chí: Phỏng vấn các chuyên gia. Từ điểm của các chuyên gia tác giả áp dụng kỹ thuật phân tích tổ hợp các tiêu chí để cho ra kết quả cuối cùng gồm một số kỹ thuật như: Xếp hạng theo thứ tự, sắp xếp tỷ lệ, kỹ thuật so sánh cặp đôi, đánh giá trực tiếp sự thỏa hiệp để sẵn sàng thay thế một phương án lựa chọn khác rồi so sánh kết quả từ các kỹ thuật này với nhau để có cách nhìn khách quan về kết quả. Đối với phương pháp AHP thì các chỉ thị, tiêu chí này sẽ được so sánh tầm quan trọng từng cặp với nhau trong một ma trận cặp đôi, điểm kết luận sẽ là kết quả của việc lựa chọn các chỉ thị có tầm ảnh hưởng thỏa mãn các điều kiện đặt ra.

3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Thực trạng sử dụng đất nông nghiệp

Về mặt tài nguyên đất thì tỉnh có 5 nhóm đất chính, trong đó nhóm đất xám chiếm đa số (84%) đất than bùn thì chiếm tỷ lệ thấp nhất (0,37%). Nhóm đất đỏ vàng           diện tích 6.691 ha chiếm 1,66%; nhóm đất phù sa diện tích 2.518 ha chiếm 0,62%; nhóm đất phèn diện tích 25.359 ha chiếm 6,28%. Tuy nhiên, dựa vào tình chất hóa học thì có thể chia làm 3 nhóm:

+ Nhóm đất nghèo dinh dưỡng và chua (đất X, Xf, Xk, Fa, Fs) có diện tích: 309.479 ha (chiếm 76,61% DTTN), các loại đất này pHHCl: 4,2 – 4,5, mùn: 0,9 – 1,4, đạm tổng số: < 0,1%, Lân nghèo: 0,03 – 0,05%, Kali nghèo: 0,3 – 0,6%.

+ Nhóm đất dinh dưỡng khá: Đất Bazan và đất phù sa chỉ có: 5.745 ha.

+ Nhóm đất có độc tố và đọng nước: Gồm các loại đất phèn: Sp, Sj, Sr, đất xám (Xh, Xg và Xhg), tổng diện tích: 64.769 ha (chiếm 16,03% DTTN).

Qua đó có thể nói tài nguyên đất ở Tây Ninh thì diện tích nhóm đất nghèo dinh dưỡng chiếm đa số, để trồng cây hiệu quả thì phải bón đầy đủ loại phân và cân đối từng loại. Bên cạnh đó, cần phải đẩy mạnh việc đầu tư cải tạo bảo vệ đất, chống suy thoái, nâng cao ý thức người dân khi khai thác và sử dụng đất. Đồng thời, nhất thiết phải có Bộ chỉ thị đánh giá chung trên địa bàn. Từ đó sẽ áp dụng đánh giá được một cách khách quan, bao hàm đầy đủ các mặt trong vấn đề SDĐNN bảo đảm được tính bền vững.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững trong SDĐNN

Để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh phải xem xét các mặt như sau:

Điều kiện tự nhiên, mà đặc biệt là tài nguyên đất, nước, khí hậu, địa hình, pH trên địa bàn có ảnh hưởng rất lớn đến cây trồng để sinh trưởng và phát triển một cách tốt nhất, vì hiện tại nông nghiệp ở Tây Ninh chủ yếu là cây lâu năm, hàng năm và nuôi trồng thủy sản ở một số huyện giáp với Sông Vàm Cỏ Đông. Nếu sử dụng tốt các yếu tố này thì có thể nói đây là yếu tốt rất quan trọng để tăng năng suất cây trồng, giảm lượng phân bón hóa học, để tăng độ phì nhiêu cho đất, đáp ứng mục tiêu sử dụng bền vững cho tương lai, từ đó có thể kiểm soát được mức độ thoái hóa của đất, độ phì nhiêu hàm lượng kim loại nặng, chỉ số đánh giá chất lượng nước, bụi.

Trình độ của con người trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh như là kỹ năng sản xuất, sự am hiểu đối tượng sản xuất, mùa vụ canh tác nếu phát huy tốt các yếu tố này thì sẽ dự báo và lên kế hoạch sản xuất một cách phù hợp nhất trong khả năng hện có và đi theo được định hướng của nhà quản lý cũng như theo quy hoạch ngành. Cũng từ sự thông minh trong sản xuất thì sẽ áp dụng KHCN tiên tiến trong và ngoài nước vào địa bàn tỉnh một cách hiệu quả nhất, cho nên có thể nói đây là yếu tốt ảnh hưởng rất lớn đến tính bền vững và cần phải quan tâm để xây dựng bộ chỉ thị tốt hơn, từ đó sẽ nâng cao được chất lượng sản phẩm nông nghiệp, tăng năng suất và sản lượng cây trồng, giảm thiệt hại về mặt kinh tế.

Trong các yếu tố trên thì để sử dụng đất bền vững không thể bỏ qua yếu tố thị trường tiêu thụ đầu ra, nông dân phải hoàn toàn tự chủ được từng loại cây trồng vặt nuôi, vốn, liên kết, hợp tác với ai mà họ thấy phù hợp với khả năng và đi đúng theo định hướng của ngành hay quy hoạch chung của tỉnh.

Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong SDĐNN

Bảng. Bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong SDĐNN cấp huyện Tây Ninh
Xây dựng bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp cấp huyện: Trường hợp nghiên cứu tỉnh Tây Ninh

Tác giả dựa vào 05 tiêu chí sàng lọc (tính đơn giản, phù hợp với mục tiêu, có sẵn số liệu, chính xác và minh bạch, tính nhạy cảm), áp dụng phương pháp đa tiêu chí đánh giá mức độ quan trọng của các chỉ thị trên từng phương diện và có tham khảo 07 chuyên gia am hiểu sâu ở các lĩnh vực khác nhau cộng với kinh nghiệm bản thân. Sau khi xử lý tính toán bằng phương pháp AHP thì trọng số của 05 tiêu chí áp dụng để sàng lọc lần lượt là 0.17; 0.32; 0.30; 0.14; 0.07, từ đây tích hợp với điểm trung bình của 07 chuyên gia thì ta có được điểm số. Kết quả của bộ chỉ thị chính thức là chọn những chỉ thị có số điểm từ 4 (điểm cao nhất là 5) trở lên, bộ chỉ thị chính thức thể hiện ở bảng dưới đây:

Trên đây là bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững được đề xuất áp dụng đánh giá tính bền vững trong SDĐNN các huyện tỉnh Tây Ninh. Bộ chỉ thị bao hàm các mặt KT-XH&MT, bộ chỉ thị này có thể áp dụng các địa bàn tương tự như điều kiện ở Tây Ninh.

4. Kết luận

Dựa trên các tiêu chí mà tác giả cùng nhóm chuyên gia nghiên cứu được đã áp dụng phương pháp AHP để sàng lọc, kết quả đưa ra được 3 chủ đề, tương ứng ở 3 lĩnh vực hình thành Bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp gồm 28 chỉ thị, trong đó có 08 chỉ thị về mặt kinh tế, 09 chỉ thị về mặt xã hội và 11 chỉ thị về mặt TN&MT.

Các chỉ thị này có thể dễ dàng thu thập số liệu hoặc số liệu đã có sẵn ở niên giám thông kê hàng năm, số liệu cũng có ở các báo cáo của các cơ quan chuyên môn thể hiện ở các dự án trên địa bàn. Các chỉ thị này phù hợp với vấn đề SDĐNN bền vững, và chỉ thị sẽ gửi những thông điệp một cách đơn giản và mô tả vấn đề rất súc tích. Phản ánh được vấn đề SDĐ bền vững KT-XH và cả lĩnh vực môi trường đảm bảo độ chính xác cao.

Để đánh giá bước tiếp theo phải tiến hành thu thập dữ liệu cho bộ chỉ thị và áp dụng một số phương pháp phân tích, xử lý dữ liệu để đánh giá, so sánh để đo lường được tính bền vững trên địa bàn nghiên cứu. Từ đó sẽ định hướng được việc SDĐNN bền vững ở 3 lĩnh vực KT-XH&MT trong tương lai.

Tài liệu tham khảo

1. Chi Cục Bảo vệ Môi trường, Sở TNMT Tây Ninh (2013, 2014, 2015, 2016), Quan trắc các thành phần môi trường đất, nước và không khí trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.

2. Chế Đình Lý (2012), Ứng dụng tiến trình phân tích cấp bậc (Analytic Hierarchy Process) đánh giá tính bền vững cho các Tỉnh Thành – Trường hợp nghiên cứu tỉnh Bình Dương, Tạp chí TN&MT.

3. Chế Đình Lý (2013), Định lượng tác động của của thuốc BVTV đến môi trường và sức khỏe cộng đồng tại Việt Nam bằng chỉ số EIQ, Tạp chí KHCN ĐH Quốc gia Hà Nội.

4. Đỗ Nguyên Hải (2011), Xác định các chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường trong quản lý SDĐ bền vững cho sản xuất nông nghiệp. Tạp chí Khoa học đất 11.

5. Nguyễn Đình Mạnh, Đỗ Nguyên Hải, Nguyễn Thị Vòng (2007), Các yếu tố môi trường trong SDĐ bền vững, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.n

TRƯƠNG CÔNG PHÚ

Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP. Hồ Chí Minh

CHẾ ĐÌNH LÝ

Viện Môi Trường và Tài nguyên TP. Hồ Chí Minh