
Hệ thống công trình thủy lợi miền Bắc trước thách thức mới. Bài 3: Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng - Bài toán vốn và yêu cầu cấp bách về nâng cấp hạ tầng
24/08/2025TN&MTGiữ vai trò “mạch máu” tưới tiêu, chống mặn và phòng chống lũ cho huyện ven biển Nghĩa Hưng cũ (tỉnh Ninh Bình), Hệ thống công trình thủy lợi Nghĩa Hưng do Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Nghĩa Hưng (Công ty) quản lý hiện đang đứng trước nhiều thách thức khi hạ tầng xuống cấp, kênh mương bồi lắng, cống đầu mối lỗi thời, nguồn vốn bảo trì eo hẹp.
LTS: Từ bao đời nay, thủy lợi đã gắn bó mật thiết với đời sống người dân khu vực phía Bắc Việt Nam. Những con đê trầm mặc chạy dài bên bờ Sông Hồng, những kênh mương len lỏi giữa cánh đồng lúa, những hồ chứa nước nằm yên bình giữa núi rừng,… tất cả tạo nên một Hệ thống “mạch máu” nuôi dưỡng sản xuất nông nghiệp, bảo đảm sinh kế cho hàng chục triệu người dân.
Bước sang thời kỳ đổi mới và hội nhập, thủy lợi không chỉ dừng ở nhiệm vụ cung cấp nước tưới tiêu, tiêu thoát lũ mà còn giữ vai trò trọng yếu trong điều tiết nguồn nước, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, trước áp lực dân số gia tăng, nhu cầu phát triển công nghiệp và đô thị, cùng những tác động ngày càng khốc liệt của thời tiết cực đoan, các Hệ thống công trình thủy lợi miền Bắc đang đứng trước nhiều thách thức lớn như tình trạng lấn chiếm các công trình thuỷ lợi; vấn nạn xả thải rác thải, chất thải xuống các tuyến kênh mương; ô nhiễm nguồn nước từ các hoạt động sản xuất công nghiệp và dân sinh chưa được xử lý; mực nước các dòng sông và hồ đập xuống thấp vào mùa khô do biến đổi khí hậu; diện tích tưới ngày càng thu hẹp trong khi hệ số tiêu ngày càng tăng lên. Đặc biệt là cơ chế giá dịch vụ thủy lợi còn nhiều bất cập, chưa phản ánh đúng chi phí thực tế của hoạt động thuỷ nông đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý và vận hành các Hệ thống công trình thuỷ lợi ở miền Bắc,…
Tuyến bài này sẽ đưa bạn đọc đi sâu tìm hiểu thực trạng, những thành tựu và tồn tại, khó khăn của các Hệ thống thủy lợi ở vùng đồng bằng Sông Hồng, trung du và miền núi phía Bắc; lắng nghe tiếng nói từ cơ sở, các nhà quản lý, chuyên gia; đồng thời cùng bàn giải pháp để quản lý và vận hành hiệu quả Hệ thống các công trình thuỷ lợi nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế và dân sinh, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nhiều thập kỷ qua, Hệ thống thủy lợi miền Bắc đã đóng vai trò then chốt trong đảm bảo an ninh nguồn nước, tưới tiêu phục vụ sản xuất và phòng chống thiên tai. Nhưng trước áp lực của biến đổi khí hậu, nhu cầu sản xuất và quá trình đô thị hóa, nhiều công trình đang đối diện tình trạng xuống cấp, thiếu vốn duy tu, nâng cấp. Tại huyện ven biển Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trước đây, mạng lưới thủy lợi vừa là “mạch máu” tưới tiêu, vừa là tuyến phòng thủ chống mặn, lũ, bảo vệ sản xuất và đời sống dân sinh. Hiện trạng xuống cấp và hạn chế về nguồn lực đầu tư đang đặt ra yêu cầu cấp bách về cải tạo đồng bộ và hiện đại hóa.
Cống Minh Châu thuộc Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng được xây dựng từ năm 1967 nay đã xuống cấp
Thực trạng hạ tầng thủy lợi Nghĩa Hưng
Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Nghĩa Hưng được UBND tỉnh Nam Định và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Định trước đây giao quản lý toàn bộ hệ thống công trình thủy lợi của huyện Nghĩa Hưng cũ. Mạng lưới bao gồm 67 cống dưới đê (37 cống tưới, 30 cống tiêu) trên các tuyến sông Đào, sông Đáy, sông Ninh Cơ và đê biển; 92 đập cấp 1; 649 cống, đập cấp 2; 44 trạm bơm điện cố định (40 tưới, 4 tiêu) có công suất từ 540 đến 3.750 m³/giờ; 219,733 km kênh cấp 1 và 568,377 km kênh cấp 2. Hệ thống đảm bảo tưới tiêu cho 10.436,41 ha lúa hai vụ, 1.275,85 ha cây màu, 2.407,84 ha nuôi trồng thủy sản và 53,17 ha làm muối; tiêu thoát nước dân sinh cho 5.767,84 ha và thực hiện nhiệm vụ phòng chống lũ bão.
Hằng năm, từ nguồn hỗ trợ giá dịch vụ thủy lợi công ích, Công ty tổ chức bảo trì, nâng cấp, xử lý sự cố công trình, máy móc, thiết bị; đồng thời xây dựng phương án ứng phó thiên tai, bảo vệ công trình và lưu trữ hồ sơ kỹ thuật.
Cống Thụ Ích thuộc Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng được xây dựng từ năm 1968
Tuy nhiên, ông Phạm Văn Kiên - Chủ tịch Công ty cho biết: “Hiện nay, một số công trình đã bị xuống cấp, giảm năng lực, không còn đủ khả năng đáp ứng cho yêu cầu phục vụ sản xuất ngày một đòi hỏi cao; kênh mương nội đồng bị bồi lắng nhiều nên phần nào năng lực dẫn nước và trữ nước giảm; những vi phạm về dòng chảy còn nhiều, gây ách tắc và làm co hẹp lòng kênh, dẫn đến tổn thất đáng kể năng lực dẫn nước đồng thời gây tốn kém cho công tác giải toả”.
Nhiều khó khăn, bất cập trong quản lý vận hành
Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng được quy hoạch từ năm 1976 và nâng cấp năm 1995. Sau gần nửa thế kỷ vận hành, nhiều hạng mục đã quá niên hạn, xuống cấp rõ rệt. Một số cống đầu mối cũ có khẩu độ nhỏ, không đáp ứng lưu lượng tưới, tiêu; nhiều khu vực trũng hạn hoặc diện tích nhỏ chưa có trạm bơm cố định. Kênh mương nội đồng bị bồi lắng, thu hẹp lòng dẫn, làm giảm khả năng dẫn và trữ nước.
Theo ông Kiên, địa hình huyện Nghĩa Hưng cũ thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, cao thấp xen kẽ, từ cốt đất +1,4 m vùng giáp đê đến +0,3 m ở vùng trũng, khiến điều tiết nước phức tạp. Dù đã có quy hoạch và kế hoạch gieo cấy theo vùng, một số nơi vẫn để xảy ra tình trạng gieo sạ, cấy xen kẽ không phù hợp, gây khó khăn cho vận hành.
Cống Đại Tám thuộc Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng được xây dựng từ năm 1972
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất hiện nay là nguồn vốn. “Kinh phí hoạt động của Công ty chủ yếu dựa vào hỗ trợ giá dịch vụ thủy lợi công ích từ ngân sách Nhà nước, nhưng mức hỗ trợ này đã giữ nguyên từ năm 2012. Trong khi đó, chi phí điện, nhiên liệu, vật tư, nhân công đều tăng, còn diện tích phục vụ có xu hướng giảm, kéo theo doanh thu giảm và quỹ bảo trì ngày càng thu hẹp. Hiện toàn hệ thống mới kiên cố hóa được khoảng 33% kênh cấp 1 và 11% kênh cấp 2. Nhiều hạng mục cần sửa chữa, thay thế khẩn cấp nhưng chưa thể triển khai vì thiếu nguồn vốn đầu tư” - ông Kiên chia sẻ thêm.
Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng nằm ở khu vực ven biển nên chịu tác động trực tiếp của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, nước biển dâng. Các cống dưới đê, đặc biệt trên triền sông Đáy, cùng hệ thống cống, đập, kênh cấp 1, cấp 2 đã xây dựng từ lâu nay xuống cấp, khiến điều tiết nước phục vụ sản xuất và phòng chống thiên tai gặp nhiều khó khăn. Hiện nhiều cống và đập điều tiết cấp 1 chưa có hệ thống vận hành điện, còn điều khiển thủ công; thiếu thiết bị quan trắc mực nước, độ mặn.
Ngoài ra, vấn đề ô nhiễm nguồn nước cũng là vấn đề đáng lo ngại. Rác thải sinh hoạt, nước thải sản xuất vẫn xả trực tiếp ra kênh mương, làm giảm chất lượng nước tưới. Mặc dù Công ty phối hợp chính quyền giải tỏa bèo, đăng đó, lập biên bản vi phạm, yêu cầu tự khắc phục và đã đạt kết quả nhất định, nhưng tình trạng tái diễn vẫn xảy ra.
Cống Ngòi Ba được xây dựng từ năm 1965
Cần sự đầu tư đồng bộ
Ông Nguyễn Trọng Nghĩa – Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Nghĩa Hưng cho biết: “Công ty đặt mục tiêu đến cuối năm 2025, Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng sẽ bảo đảm điều tiết nước tiết kiệm, khoa học, linh hoạt cho sản xuất nông nghiệp, diêm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và dân sinh; quản lý, khai thác, vận hành hệ thống an toàn; đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Để đạt được mục tiêu này, Công ty đề nghị cấp trên cần sớm bố trí vốn xây mới các cống đầu mối đã xuống cấp, kiên cố hóa toàn bộ kênh cấp 1, cấp 2, đồng bộ hóa hệ thống, lắp đặt thiết bị vận hành điện, giám sát từ xa và hệ thống quan trắc tự động”.
Trong bối cảnh đó, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Nghĩa Hưng đã đưa ra kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026–2030, đề xuất ưu tiên xây mới và nâng cấp các cống đầu mối dưới đê đã xuống cấp, đồng bộ hóa toàn bộ hệ thống, đẩy nhanh tiến độ kiên cố hóa kênh cấp 1, cấp 2, hiện đại hóa trạm bơm và trang bị hệ thống vận hành điện, giám sát tự động như: Kênh Bình Hải II, Trạm bơm Lâm Hùng Hải. Kênh Âm Sa và tuyến nhánh cùng với 18 công trình dưới cống đê với tổng mức đầu tư dự kiến 876 tỷ đồng.
Công ty cũng kiến nghị lắp đặt thiết bị quan trắc mực nước, độ mặn tại các cống trọng yếu để chủ động ứng phó xâm nhập mặn, một thách thức ngày càng gay gắt với một khu vực ven biển như Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng. Các dự án này được xếp vào nhóm công trình bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng chống thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu, nhưng tiến độ triển khai vẫn phụ thuộc vào khả năng cân đối vốn từ Trung ương và địa phương.
Cống Trại Giống thuộc Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng được xây dựng từ năm 1975
Ông Nghĩa cũng kiến nghị thêm: “Bộ Nông nghiệp và Môi trường hướng dẫn tiêu chí kỹ thuật cho từng loại công trình, Nhà nước điều chỉnh giá dịch vụ thủy lợi công ích theo biến động thị trường, cân đối ngân sách và huy động vốn hợp pháp để đầu tư xây dựng, mở rộng các công trình mới. Đồng thời, cần tăng cường kiểm soát xả thải, xử lý nghiêm vi phạm, nâng cao ý thức bảo vệ công trình và môi trường nước”.
Với vai trò huyết mạch trong sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh, Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng cần được đầu tư cải tạo đồng bộ, ứng dụng công nghệ hiện đại và tăng cường quản lý môi trường nguồn nước. Chỉ khi có sự vào cuộc quyết liệt và phối hợp đồng bộ từ Trung ương, địa phương và cộng đồng, Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng mới có thể tiếp tục phát huy hiệu quả, bảo đảm an ninh nguồn nước, thích ứng với biến đổi khí hậu và đóng góp vào phát triển bền vững vùng ven biển tỉnh Ninh Bình.
Dưới đây là một số hình ảnh về các công trình thuỷ lợi được xây dựng từ lâu nay đã xuống cấp của Hệ thống thủy lợi Nghĩa Hưng:
Cống Hạ Kỳ được xây dựng từ năm 1970
Cống Chi Tây được xây dựng từ năm 1973
Cống Triều được xây dựng từ năm 1973
Cống Thăng Thượng được xây dựng từ năm 1973
Cống Tam Toà được xây dựng từ năm 1974
Cống Hải Lạng được xây dựng từ năm 1974
Cống Quần Liêu được xây dựng từ năm 1976
Cống Sách được xây dựng năm 1986
Cống Kỳ Phú được xây dựng năm 1987
Cống Hưng Thịnh được xây dựng năm 1987
Bài 4: Hệ thống thuỷ lợi Hải Hậu - Khó khăn do cơ chế giá dịch vụ thủy lợi
Đỗ Hùng - Lê Thành
>>>>> Xin vui lòng xem thêm:
- Phú Thọ: Thúc đẩy quản lý, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên nước;
- Lào Cai: Hướng đến quản lý hiệu quả tài nguyên nước;
- Nghệ An: Giám sát chặt chẽ các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước.