Tổng thuật tọa đàm: "Luật Địa chất và Khoáng sản - Nền tảng phát huy hiệu quả nguồn lực địa chất khoáng sản và công nghiệp khai khoáng."

16/09/2025

TN&MTNgày 16/9/2025, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam tổ chức Toạ đàm với chủ đề “Luật Địa chất và Khoáng sản - Nền tảng phát huy hiệu quả nguồn lực địa chất khoáng sản và công nghiệp khai khoáng”. Tọa đàm nhằm phân tích, trao đổi đa chiều giữa các cơ quan quản lý, hiêp hội doanh nghiệp, báo chí - truyền thông và địa phương, qua đó tìm giải pháp đưa Luật Địa chất và Khoáng sản số 54/2024/QH15 thực sự đi vào cuộc sống, phục vụ phát triển bền vững ngành khai khoáng.

MC chương trình
“Kính chào quý vị đại biểu, các vị khách quý và toàn thể quý vị đang theo dõi chương trình. Hôm nay, tại Tầng 15, Khối B, Toà nhà Sông Đà, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam long trọng tổ chức Toạ đàm với chủ đề: ‘Luật Địa chất và Khoáng sản - Nền tảng phát huy hiệu quả nguồn lực địa chất khoáng sản và công nghiệp khai khoáng.’

Thưa quý vị, đây là sự kiện tiếp nối sau Hội nghị tuyên truyền, phổ biến Luật Địa chất và Khoáng sản số 54/2024/QH15 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã diễn ra tại trụ sở Bộ Nông nghiệp và Môi trường ngày 21/8 vừa qua. Nếu như Hội nghị ngày 21/8 tập trung giới thiệu những điểm mới của Luật và định hướng triển khai chung, thì Toạ đàm hôm nay đi sâu vào trao đổi đa chiều từ các góc nhìn quản lý, doanh nghiệp, báo chí - truyền thông và địa phương, nhằm tìm giải pháp để Luật thực sự đi vào cuộc sống. Xin trân trọng cảm ơn sự hiện diện của quý vị!”

Để bắt đầu chương trình, xin trân trọng giới thiệu sự hiện diện của các vị khách mời:

- Đại diện cơ quan quản lý chuyên môn: Bà Phạm Thị Thanh, Phó Trưởng phòng Pháp chế và Kiểm soát hoạt động địa chất khoáng sản, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

- Đại diện doanh nghiệp – hiệp hội: Ông Phạm Văn Sơn, Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS); Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE).

- Đại diện truyền thông chính sách: Ông Đào Xuân Hưng, Tổng Biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường.

Xin trân trọng cảm ơn sự hiện diện của các vị khách mời đã đồng hành cùng chương trình.

Các khách mời tham dự tọa đàm "Luật Địa chất và Khoáng sản - Nền tảng phát huy hiệu quả nguồn lực địa chất khoáng sản và công nghiệp khai khoáng"

MC chương trình:
Thưa quý vị, ngay sau đây, chúng ta sẽ bước vào phần trao đổi chính của Toạ đàm. Ở vòng thảo luận đầu tiên, chúng tôi xin được dành câu hỏi cho đại diện cơ quan quản lý chuyên môn - Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Xin trân trọng kính mời Bà Phạm Thị Thanh, Phó Trưởng phòng Pháp chế và Kiểm soát hoạt động địa chất khoáng sản, sẽ cùng chia sẻ với chúng ta. Thưa Bà Phạm Thị Thanh, trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, bà có thể chia sẻ về vai trò của Luật Địa chất và Khoáng sản trong việc định hướng chiến lược cho ngành khai khoáng? Và làm thế nào để Luật thực sự đi vào cuộc sống, phục vụ phát triển bền vững?”.

Bà Phạm Thị Thanh - Phó Trưởng phòng Pháp chế và Kiểm soát hoạt động địa chất khoáng sản, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

Khách mời Phạm Thị Thanh - Phó Trưởng phòng Pháp chế và Kiểm soát hoạt động địa chất khoáng sản, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

"Về vai trò của Luật Địa chất và Khoáng sản trong việc định hướng chiến lược cho ngành khai khoáng, tôi xin được nhấn mạnh một số điểm chính:

Thứ nhất, Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024, được Quốc hội khóa XV thông qua có hiệu lực chung từ ngày 01/7/2025, đóng vai trò là văn bản pháp lý cao nhất, định hình toàn bộ khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động địa chất và khoáng sản [Điều 1, khoản 1]. Luật quy định chi tiết từ công tác điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, chế biến, đến quản lý dữ liệu và quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản [Điều 1, khoản 1]. Điều này tạo nền tảng vững chắc để ngành phát triển có định hướng, có tầm nhìn chiến lược.

Thứ hai, Luật thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về tài nguyên địa chất, khoáng sản là nguồn lực đặc biệt quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh [Điều 4; khoản 1 Điều 3]. Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng đã khẳng định rõ điều này. Luật tập trung vào việc quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên và phục vụ phát triển bền vững [khoản 1 Điều 3].

Để Luật thực sự đi vào cuộc sống và phục vụ phát triển bền vững, chúng tôi nhận thấy cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp:

Thứ nhất, tập trung hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực quản lý nhà nước: Đồng thời với việc Quốc hội bấm nút thông qua Luật, Chúng tôi đã nhanh chóng cụ thể hóa các quy định của Luật bằng các văn bản hướng dẫn chi tiết, như Nghị định số 193/2025/NĐ-CP của Chính phủ và các Thông tư hướng dẫn. Hiện chúng tôi đang tiếp tục rà soát; đồng thời cùng với đó cần tiếp tục tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương để đảm bảo thực thi hiệu quả Luật.

Thứ hai, Đẩy mạnh công tác quy hoạch: Việc lập quy hoạch địa chất, khoáng sản phải bảo đảm tính chiến lược, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia và khai thác hiệu quả tài nguyên, gắn với bảo vệ môi trường [Điều 10; Điều 11].
Thứ ba, Thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến: Đây là yếu tố then chốt để khai thác, chế biến khoáng sản đạt hiệu quả kinh tế cao, giảm thiểu tác động môi trường. Luật khuyến khích đầu tư, ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ thông tin trong các hoạt động khai khoáng.

Thứ tư, Minh bạch, trách nhiệm giải trình: Xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu địa chất, khoáng sản quốc gia đồng bộ, thống nhất để công khai, minh bạch thông tin [Điều 118, khoản 1, điểm a; Điều 89, khoản 1]. Điều này giúp nâng cao trách nhiệm giải trình của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khai khoáng.

Thứ năm, Bảo vệ môi trường và phục hồi sau khai thác: Luật quy định rõ yêu cầu về bảo vệ môi trường, xử lý chất thải, phục hồi môi trường sau khai thác, và đóng cửa mỏ [Điều 95; Điều 7; Điều 79, Điều 81]. Chúng ta cần giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định này.

Những giải pháp này sẽ giúp Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 thực sự phát huy vai trò định hướng, tạo động lực cho ngành khai khoáng phát triển bền vững, hài hòa lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường, đúng như tinh thần của Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược địa chất và khoáng sản."

MC chương trình: “Thưa ông Phạm Thanh Sơn, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đã có nhiều quy định mới nhằm tăng cường trách nhiệm bảo vệ môi trường, trong đó có nội dung liên quan đến yêu cầu chung về bảo vệ môi trường. Ở góc nhìn thực tiễn, theo ông, những nội dung này đã thỏa mãn sự quan tâm của cộng đồng về công tác bảo vệ môi trường hay chưa, nhất là liên quan đến các sự cố trong hoạt động khoáng sản?”

Ông Phạm Văn Sơn - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS); Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE).

Khách mời Phạm Văn Sơn - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS); Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE).

"Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 là một bước tiến quan trọng, đặt ra yêu cầu gắn khai thác với trách nhiệm bảo vệ môi trường. Luật cũng đã nêu nguyên tắc khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư, và chiến lược công nghiệp khai khoáng phải phù hợp với chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Điều này thể hiện quan điểm và đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là "không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế". 

Tuy nhiên để triển khai các nội dung thực tiễn liên quan đến bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm phát sinh hàng ngày, phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường trong khai thác khoáng sản thì cần phải có các văn bản dưới luật và hướng dẫn kỹ thuật cụ thể hơn để doanh nghiệp có thể áp dụng rõ ràng. Bởi trong Luật Địa chất và Khoáng sản, Điều 79 quy định “Yêu cầu chung về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản” mới chỉ nêu khái quát. 

Tôi tin rằng trong thời gian tới các cơ quan soạn thảo sẽ tiếp tục hoàn thiện nghị định, thông tư hướng dẫn cụ thể qui định về tiêu chuẩn đối với bể chứa chất thải quặng đuôi, lập, thẩm định kế hoạch phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường, và qui định về công trình xử lý nước thải phát sinh hàng ngày là nội dung bắt buộc đối với thủ tục cấp phép cũng như hoạt động khai thác khoáng sản."

MC chương trình: Với vai trò là cơ quan truyền thông chính sách của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai những hoạt động gì để tuyên truyền sâu rộng Luật Địa chất và Khoáng sản, giúp cộng đồng và doanh nghiệp dễ tiếp cận, dễ thực thi?

Ông Đào Xuân Hưng - Tổng biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Ông Đào Xuân Hưng - Tổng biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường.

"Với vai trò là cơ quan truyền thông chính sách của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường xác định việc tuyên truyền sâu rộng Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 là nhiệm vụ trọng tâm ngay sau khi Luật được Quốc hội thông qua.

Chúng tôi đã triển khai đồng bộ nhiều hoạt động, cụ thể như sau:

Thứ nhất, xây dựng các chuyên trang, chuyên mục phân tích điểm mới của Luật trên cả báo in, báo điện tử và hệ thống mạng xã hội. Nội dung được thể hiện dưới dạng infographic, video ngắn, tọa đàm trực tuyến để ngôn ngữ pháp luật trở nên gần gũi, dễ hiểu với người dân và doanh nghiệp.

Thứ hai, tổ chức các chuỗi toạ đàm, hội thảo phối hợp với Cục Địa chất và Khoáng sản, mời các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và đại diện địa phương tham gia. Đây là diễn đàn để giải đáp thắc mắc, tháo gỡ những điểm khó trong triển khai Luật.

Thứ ba, chúng tôi đẩy mạnh phóng sự thực tế từ các vùng mỏ, địa phương - nơi chịu tác động trực tiếp từ hoạt động khai thác. Qua đó, Luật không chỉ được truyền tải dưới góc độ chính sách, mà còn gắn với đời sống, với quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng.

Cuối cùng, Tạp chí còn phối hợp với các Sở cử phóng viên đi tác nghiệp thực tiễn tham gia các lớp tập huấn cùng truyền thông để cán bộ cơ sở, doanh nghiệp nhỏ và người dân nắm được quy định mới, từ đó thực thi đúng và hiệu quả.

Có thể nói, mục tiêu của chúng tôi không chỉ là đưa Luật đến với bạn đọc, mà còn đưa Luật đi vào đời sống, gắn với từng mỏ, từng địa phương, từng doanh nghiệp, để Luật thật sự phát huy hiệu lực.”

MC chương trình: “Thưa bà Phạm Thị Thanh, trong quá trình triển khai Luật Địa chất và Khoáng sản, thách thức lớn nhất hiện nay là gì? Cục có định hướng, giải pháp nào để hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, đồng thời bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc bền vững của Luật?”.

Bà Phạm Thị Thanh - Phó Trưởng phòng Pháp chế và Kiểm soát hoạt động địa chất khoáng sản, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam:

Bà Phạm Thị Thanh nêu các giải pháp của Cục Địa chất và Khoáng sản.

"Theo đánh giá của chúng tôi, thách thức lớn nhất hiện nay chính là việc chuyển hóa các chủ trương, chính sách và quy định pháp luật mới thành hành động cụ thể, đồng bộ và hiệu quả trên thực tế, đặc biệt trong bối cảnh những tồn tại, hạn chế từ giai đoạn trước vẫn còn khá lớn. Cụ thể hơn, đó là:

- Năng lực thực thi và phối hợp: Mặc dù Luật đã phân quyền mạnh mẽ hơn cho địa phương, nhưng năng lực về chuyên môn, công nghệ, nhân lực của một số địa phương còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đôi khi còn chưa thực sự thông suốt, dẫn đến việc triển khai chưa đồng bộ.

- Vấn đề dữ liệu và thông tin: Hiện trạng dữ liệu địa chất, khoáng sản vẫn còn phân tán, chưa được chuẩn hóa và khai thác hiệu quả. Điều này gây khó khăn cho việc ra quyết định của cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp.

- Thách thức về đầu tư và công nghệ: Việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ khai thác, chế biến sâu hiện đại, thân thiện môi trường còn gặp những rào cản, đặc biệt là với các mỏ nhỏ, phân tán hoặc khoáng sản phức tạp.

- Giải quyết hài hòa lợi ích: Đảm bảo cân bằng giữa lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, ngân sách nhà nước và quyền lợi của cộng đồng, bảo vệ môi trường vẫn là bài toán khó.

Trước những thách thức này, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam đã và đang có những định hướng, giải pháp cụ thể để hỗ trợ địa phương, doanh nghiệp:

Thứ nhất, chúng tôi đang tập trung vào hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật. Cụ thể là triển khai hiệu quả Nghị định số 193/2025/NĐ-CP để đưa các quy định của Luật vào cuộc sống một cách chi tiết, rõ ràng, tránh gây lúng túng cho địa phương và doanh nghiệp.

Thứ hai, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý địa chất, khoáng sản tại địa phương. Chúng tôi sẽ tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo, cung cấp tài liệu hướng dẫn kỹ thuật để họ có thể thực thi tốt các nhiệm vụ được phân quyền theo Nghị định số 136/2025/NĐ-CP, Điều 34 [Điều 34, khoản 1].

Thứ ba, đẩy nhanh việc xây dựng và đưa vào vận hành Hệ thống thông tin, dữ liệu địa chất và khoáng sản quốc gia. Hệ thống này sẽ cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chuẩn xác cho các địa phương và doanh nghiệp, giúp họ có cơ sở để ra quyết định và lập kế hoạch hiệu quả hơn Điều 118; Điều 89].

Thứ tư, chúng tôi sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan và địa phương để kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn phát sinh. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa quy trình, nhưng vẫn đảm bảo chặt chẽ, hiệu quả trong công tác cấp phép và giám sát.

Cuối cùng, chúng tôi sẽ tiếp tục khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận các chính sách ưu đãi, như chính sách thuế, phí ưu đãi, để thu hút đầu tư vào công nghệ hiện đại, chế biến sâu, và các hoạt động bảo vệ, phục hồi môi trường sau khai thác.

Những giải pháp này, chúng tôi tin rằng, sẽ giúp địa phương và doanh nghiệp vượt qua thách thức, đồng thời đảm bảo ngành khai khoáng phát triển theo đúng các nguyên tắc bền vững mà Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 đã đề ra."

MC chương trình: Trong quá trình hoạt động của Trung tâm SOS, ông và cộng sự đã trực tiếp tham gia xử lý nhiều sự cố môi trường. Ông có thể chia sẻ một vài trường hợp điển hình, chẳng hạn sự cố nhỏ lẻ liên quan đến hóa chất trong tuyển quặng, hay những sự cố nghiêm trọng như bùn thải tràn ra môi trường? Qua những trải nghiệm thực tế đó, ông rút ra những vấn đề gì đáng chú ý nhất cho công tác phòng ngừa và ứng phó sự cố hiện nay?

Ông Phạm Văn Sơn - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS); Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE):

Ông Phạm Văn Sơn nêu ra thực trạng những vấn đề tồn tại khi thực hiện Luật.

“Trung tâm SOS chúng tôi đã trực tiếp xử lý rất nhiều sự cố môi trường đa dạng khác nhau trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên đối với lĩnh vực khai thác khoáng sản tôi không muốn đề cập đến các sự cố vừa và nhỏ đã xử lý như trạm cấp dầu cho xe hoạt động trên mỏ than bị sụt lún gây tràn dầu vào đất, các thùng dầu cấp cho thiết bị khai thác đá tại mỏ đá bị sự cố làm dầu tràn vào suối nước đầu nguồn…. Ở đây tôi muốn hướng sự chú ý tới những sự cố đặc thù mang tính chất nghiêm trọng hơn. Đó là các sự cố vỡ đập bể thải quặng đuôi kim loại chì, kẽm, đồng, ví dụ như tại Tả Phời (Lào Cai), tại Chợ Đồn (Bắc Kạn). 

Hoạt động khai thác khoáng sản nhóm I liên quan đến khoáng sản kim loại sử dụng nhiều loại hóa chất, nhất là trong khâu tuyển quặng. Và chỉ cần thống kê sổ sách kế toán, chúng ta có thể hình dung được doanh nghiệp sử dụng các hóa chất gì, tính độc như thế nào, khối lượng từng loại sử dụng mỗi năm, tổng hợp số liệu tất cả các năm hoạt động của mỏ thì về cơ bản chúng ta sẽ có đáp án tổng lượng hóa chất từng loại đang lưu chứa trong các bể chứa quặng đuôi từ lúc mỏ bắt đầu hoạt động đến thời điểm hiện tại. Điều nguy hiểm ở chỗ các bể chứa quặng đuôi thường được xây dựng theo cách dựa vào ba mặt là sườn núi và mặt thứ tư là đập chắn nhân tạo. Yêu cầu kĩ thuật đối với đặp chặn này đơn giản hơn so với đập thủy điện. Và thực tế đã có nhiều sự cố đập bị vỡ, bị sạt lở khi có mưa bão. Điều khiến tôi rất lo lắng là thực trạng các bể chứa chất thải thường được bố trí ở vị trí cao hơn hàng trăm mét so với khu vực cộng đồng dân cư  sống lân cận gần đó.

Chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận rằng khi xảy ra sự cố, hàng trăm ngàn mét khối bùn thải thoát ra, cuốn phăng cả nhà cửa của người dân, lấp chìm vườn ruộng ao hồ thì không có trang thiết bị ứng phó nào có thể triển khai kịp thời để cô lập thu hồi ngay được. Hầu hết lượng bùn thải cùng với hóa chất đã bị nước lũ, mưa lớn cuốn trôi về hạ nguồn, lan truyền xa, qua các lưu vực sông hướng ra biển. Việc lấy mẫu tại hiện trường sự cố trên diện tích vài ki lô mét vuông hay vài chục ki lô mét vuông để phân tích các chỉ tiêu về thực chất không có nhiều ý nghĩa, vì lượng lớn hóa chất đã bị “chuyển phát nhanh” bởi mưa lũ theo suối đầu nguồn chảy ra sông, ra biển. Lượng hóa chất còn sót lại trên bề mặt cũng đã bị mưa bão, hay nước mưa sau đó rửa trôi hoặc pha loãng. 

Tiếp nữa là vấn đề ô nhiễm hóa chất hàng ngày đối với môi trường nước bởi 2 nguồn: i) Nước thải nhiễm hóa chất từ các bể chứa quặng đuôi hàng ngày, nhất là những khi trời mưa không được xử lý tại nhiều mỏ, hoặc có được xử lý nhưng không đạt chuẩn, chảy thẳng ra suối, ra sông, và ii) Nước nhiễm hóa chất âm thầm rò rỉ vào đất từ đáy hoặc thành bể thải. Các bể chứa chất thải quặng đuôi được lót vải địa kĩ thuật, về lý thuyết thì vật liệu này có độ bền nhiều năm. Nhưng hàng ngàn tấn bùn thải bồi thêm theo năm tháng hoạt động của xưởng tuyển quặng có thể dẫn đến nguy cơ sụt lún, biến động lớp nền, biến dạng lớp đáy dẫn đến rách, thủng lớp vải lót. Và cũng chưa có hoạt động đánh giá tính nguyên vẹn của lớp vải địa kĩ thuật sau khi bị lấp sâu hàng chục mét cũng như quan trắc chất lượng nước ngầm xung quanh các bể chứa chất thải.

Hóa chất nhiễm vào đất, vào nguồn nước mặt thoát ra sông biển, ngấm vào mạch nước ngầm do sự cố vỡ bể thải và ô nhiễm hàng ngày của hoạt động khai thác khoáng sản vô cùng nguy hiểm, vì nguồn nước suối, nước ngầm là nguồn nước duy nhất cho sự sống và sinh hoạt hàng ngày của các cộng đồng dân cư sống gần các khu vực khai thác khoáng sản và dưới hạ nguồn. Hóa chất lan truyền về xuôi tiếp tục gây nguy hại cho sức khỏe của người dân theo dọc theo các lưu vực sông qua nguồn nước mặt và sản phẩm nông nghiệp."

MC chương trình: “Trong thời gian tới, Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường có kế hoạch truyền thông trọng điểm nào để đưa Luật đến gần hơn với người dân, doanh nghiệp, và đặc biệt là lực lượng lao động tại các địa phương khai khoáng?”

Ông Đào Xuân Hưng - Tổng biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường

Ông Đào Xuân Hưng nhấn mạnh cần đẩy mạnh hình thức đối thoại trực tuyến với lực lượng lao động trẻ.

"Nếu như trong thời gian qua, Tạp chí tập trung nhiều vào việc giới thiệu và phân tích các điểm mới của Luật, thì trong thời gian tới, trọng tâm của chúng tôi sẽ là đưa Luật đến thẳng với người lao động và cộng đồng vùng mỏ - những đối tượng chịu tác động trực tiếp nhất.

Cụ thể, chúng tôi sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng, với chính quyền địa phương để:

- Tổ chức các buổi truyền thông các đia phương tại khu vực có mỏ, nơi công nhân và người dân có thể trực tiếp nghe, trao đổi, đặt câu hỏi về những quy định liên quan đến quyền lợi, an toàn lao động, môi trường sống.

- Sản xuất các tài liệu trực quan, dễ hiểu, như tờ gấp, video hướng dẫn bằng ngôn ngữ địa phương, để bà con vùng sâu, vùng xa cũng có thể tiếp cận thông tin.

- Đẩy mạnh hình thức đối thoại trực tuyến để lực lượng lao động trẻ có thể trao đổi qua mạng xã hội, tiếp cận thông tin nhanh chóng, gần gũi.

Mục tiêu của chúng tôi là không chỉ dừng ở việc tuyên truyền văn bản, mà là giúp từng công nhân, từng hộ dân ở khu vực khai thác hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ, cũng như biết cách giám sát, phản ánh theo tinh thần của Luật mới. Khi làm được điều đó, Luật sẽ thực sự đi vào đời sống và tạo ra sự đồng thuận xã hội.”

MC chương trình: Thưa ông Phạm Văn Sơn, để khắc phục tình trạng này, theo ông cần cơ chế phối hợp như thế nào giữa cơ quan quản lý, doanh nghiệp và cộng đồng? Và vai trò của khoa học - công nghệ, đặc biệt là các giải pháp xử lý sinh học trong việc phục hồi đất, nước và kiểm soát ô nhiễm hàng ngày tại khu vực mỏ nên được triển khai ra sao?”

Ông Phạm Văn Sơn - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS); Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE).

“Để khắc phục tình trạng này, theo tôi, điều quan trọng nhất là phải xây dựng một cơ chế phối hợp ba bên thật chặt chẽ: cơ quan quản lý - doanh nghiệp - cộng đồng.

a) Cơ quan quản lý là khâu quan trọng để các biện pháp bảo vệ môi trường nói chung và phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường nói riêng thực sự đi vào bản chất và thực tiễn. Phòng ngừa sự cố vỡ đập thải là mục tiêu hàng đầu cơ quan quản lý cần chú trọng khi thẩm định phê duyệt thiết kế xây dựng công trình bể thải. Nếu bể thải xây dựng theo đúng tiêu chuẩn xây dựng qui định mà vẫn xảy ra sự cố thì cần phải rà soát điều chỉnh lại tiêu chuẩn đó. Công trình xử lý nước thải phải hoạt động đảm bảo xử lý nước đạt tiêu chuẩn trước khi xả ra suối bởi vào nguồn nước cung cấp cho sự sống của cộng đồng dân cư sống bên dưới.

Sự tham gia phối hợp của các bên liên quan, của chuyên gia trong thẩm định quy hoạch, thiết kế, kế hoạch, và triển khai kế hoạch sau thẩm định là việc hết sức quan trọng để kế hoạch phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường, kiểm soát ô nhiễm trong khai thác khoáng sản thực sự đi vào thực tiễn. 

b) Doanh nghiệp cần hiểu việc đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm tuân thủ Luật và các qui định, mà còn là bảo vệ sức khỏe cho bản thân, gia đình, những người thân yêu của mình và cả cộng đồng. Không một cơ quan chức năng nào có thể kiểm soát hành vi của doanh nghiệp liên tục 24/7. Và việc bảo vệ môi trường phải bắt đầu từ nhận thức để từ đó mới có hành động tự giác và thiết thực.

c) Cộng đồng chính là “tai mắt” tại chỗ, cần được cung cấp thông tin, được quyền tham gia giám sát, để cùng tạo ra áp lực minh bạch cho hoạt động khai thác.

Song song với cơ chế phối hợp này, chúng ta cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, chú trọng đến áp dụng các giải pháp sinh học để chuyển hóa các chất ô nhiễm. Có nhiều các nghiên cứu tâm huyết của các nhà khoa học tại Việt Nam đã cho kết quả khả quan, nhưng chưa thực sự được quan tâm, đầu tư và ứng dụng một cách tích cực  

Tất cả những điều đó phải được triển khai đồng bộ trong chiến lược, quy hoạch và điều tra cơ bản. Khi có sự phối hợp ba bên cùng sự hỗ trợ của khoa học, chúng ta mới có thể phòng ngừa rủi ro tốt hơn, xử lý ô nhiễm hiệu quả hơn, và quan trọng nhất là bảo vệ an toàn cho cộng đồng dân cư quanh khu vực mỏ, khu vực hạ lưu và cộng đồng sống theo các lưu vực sông bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai thác khoáng sản.”

THẢO LUẬN MỞ RỘNG

Toàn cảnh phiên thảo luận mở rộng.

MC chương trình: "Kính thưa quý vị, chúng ta đã nghe quan điểm từ 3 góc độ: Nhà quản lý, nhà doanh nghiệp – hiệp hội, báo chí truyền thông. Xin mời các khách mời cùng trao đổi, phản biện và bổ sung giải pháp để phát huy hiệu quả nguồn lực địa chất khoáng sản, đồng thời đảm bảo mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển xanh.”

MC chương trình: “Thưa bà Phạm Thị Thanh, với tư cách cơ quan quản lý chuyên môn cao nhất, Cục Địa chất và Khoáng sản có thể chia sẻ rõ hơn về những đổi mới mang tính đột phá trong Luật, đặc biệt là cơ chế phân quyền cho địa phương và các quy định nhằm bảo đảm minh bạch, trách nhiệm giải trình?”

Bà Phạm Thị Thanh - Phó Trưởng phòng Pháp chế và Kiểm soát hoạt động địa chất khoáng sản, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam.

“Với vai trò là cơ quan quản lý chuyên môn, chúng tôi nhận thấy Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 thực sự mang đến nhiều điểm đổi mới đột phá, đặc biệt là trong cơ chế phân quyền và các quy định về minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Về những đổi mới mang tính đột phá, nổi bật nhất phải kể đến:

Thứ nhất, Tầm nhìn chiến lược và quy hoạch đồng bộ: Luật đã nâng tầm công tác quy hoạch địa chất, khoáng sản, gắn kết với quy hoạch quốc gia, ngành, địa phương, đảm bảo tính liên thông và bền vững [271, Điều 10, khoản 1; 272, Điều 11, khoản 1]. Điều này giúp ngành khai khoáng có định hướng rõ ràng, tránh chồng chéo, lãng phí.

Thứ hai, Phân loại khoáng sản rõ ràng hơn: Luật và Nghị định số 193/2025/NĐ-CP đã phân loại khoáng sản thành 4 nhóm chính [Điều 6], giúp công tác quản lý được cụ thể hóa, phù hợp với đặc thù từng loại khoáng sản.

Đặc biệt, về cơ chế phân quyền cho địa phương, đây là một điểm nhấn quan trọng:

- Nhằm tăng cường tính chủ động, linh hoạt và phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, Luật đã phân quyền mạnh mẽ hơn cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong nhiều nhiệm vụ quản lý nhà nước về địa chất và khoáng sản.

- Theo quy định tại Nghị định số 136/2025/NĐ-CP, Điều 33, khoản 1, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:

+ Phê duyệt và điều chỉnh các khu vực cấm, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản [Điều 33, khoản 1, điểm a].

Điều này giúp địa phương chủ động trong việc bảo vệ các khu vực nhạy cảm, có giá trị đặc biệt.

+ Cấp, gia hạn, điều chỉnh, thu hồi giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản đối với một số nhóm khoáng sản hoặc khu vực nhất định. Ví dụ, với khoáng sản nhóm III, IV, Chủ tịch UBND cấp tỉnh được cấp giấy phép thăm dò, khai thác [Điều 43, điểm g].

+ Phê duyệt dự án đầu tư khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền, gắn với bảo vệ môi trường và quy hoạch [Điều 33, khoản 1, điểm e; Điều 33, khoản 4].

- Cơ chế này giúp rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính và tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương, đảm bảo hoạt động khai khoáng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và môi trường tại chỗ [Điều 8, khoản 2].

Về các quy định nhằm bảo đảm minh bạch, trách nhiệm giải trình, Luật cũng đã có những bước tiến lớn:

- Công khai thông tin: Luật quy định rõ việc công khai các thông tin về quy hoạch, dự án, kết quả thăm dò, khai thác khoáng sản trên các cổng thông tin điện tử của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, và địa phương [Điều 119; Điều 90]. Điều này giúp người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội dễ dàng tiếp cận thông tin, giám sát các hoạt động khai khoáng [Điều 125].

- Hệ thống dữ liệu quốc gia: Chúng tôi đang đẩy mạnh xây dựng Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu địa chất và khoáng sản quốc gia [Điều 118; Điều 89] theo hướng đồng bộ, thống nhất, tích hợp công nghệ hiện đại. Đây sẽ là công cụ then chốt để quản lý minh bạch, cung cấp thông tin kịp thời và chính xác, tăng cường khả năng kiểm soát và đánh giá [Điều 118, khoản 1, điểm a; Điều 122].

- Đấu giá quyền khai thác khoáng sản: Việc áp dụng đấu giá quyền khai thác khoáng sản [Điều 143; Điều 100] thay vì cấp phép theo cơ chế xin cho, giúp tăng tính cạnh tranh, minh bạch và tối ưu hóa lợi ích cho nhà nước.

- Trách nhiệm giải trình: Luật quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong toàn bộ chu trình hoạt động khoáng sản [Điều 125; Điều 150, khoản 6; Điều 93]. Cơ quan quản lý sẽ phải chịu trách nhiệm về các quyết định và hoạt động của mình, đảm bảo tính công bằng và hiệu quả.

Những đổi mới này, chúng tôi tin rằng, sẽ tạo ra một môi trường quản lý địa chất và khoáng sản hiệu quả, công bằng, minh bạch, góp phần phát triển bền vững cho đất nước."

MC chương trình: “Trong bối cảnh ngành khai khoáng chịu nhiều sức ép về môi trường, kinh tế và yêu cầu phát triển bền vững, theo quý vị, những yếu tố chiến lược nào sẽ quyết định để Luật Địa chất và Khoáng sản thực sự trở thành công cụ quản lý hiệu quả và động lực cho phát triển xanh?”

Bà Phạm Thị Thanh - Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam: "Thực tế, ngành khai khoáng hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, từ áp lực môi trường, biến đổi khí hậu đến yêu cầu về hiệu quả kinh tế và trách nhiệm xã hội. Để Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 thực sự trở thành một công cụ quản lý hiệu quả và là động lực cho phát triển xanh, tôi cho rằng có một số yếu tố chiến lược then chốt:

Thứ nhất, tư duy quản lý và quy hoạch phải thực sự bền vững. Điều này có nghĩa là các quy hoạch địa chất, khoáng sản không chỉ dừng lại ở việc xác định trữ lượng hay vị trí mỏ, mà phải tích hợp sâu rộng các yếu tố môi trường, xã hội, quốc phòng, an ninh [Điều 4, khoản 1; Điều 10, khoản 1, điểm a]. Chúng ta cần quy hoạch theo hướng khai thác có chọn lọc, ưu tiên khoáng sản chiến lược, quan trọng, và khuyến khích chế biến sâu để gia tăng giá trị [Điều 108; Điều 3, khoản 4; Điều 10, khoản 2, điểm b].

Thứ hai, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại là bắt buộc. Để phát triển xanh, ngành khai khoáng không thể giữ mãi công nghệ lạc hậu. Chúng ta phải khuyến khích, thúc đẩy mạnh mẽ việc đầu tư và chuyển giao công nghệ cao trong tất cả các khâu: thăm dò thông minh, khai thác ít gây tác động, chế biến sâu với công nghệ sạch, và phục hồi môi trường hiệu quả. Việc này giúp tối ưu hóa tài nguyên, giảm thiểu chất thải và ô nhiễm, phù hợp với định nghĩa về phát triển xanh.

Thứ ba, cơ chế phân quyền phải đi đôi với nâng cao năng lực và tăng cường giám sát. Như chúng ta đã thảo luận, Luật có những đổi mới mạnh mẽ về phân quyền cho địa phương. Tuy nhiên, để cơ chế này hiệu quả, cần đồng thời nâng cao năng lực chuyên môn, quản lý cho cán bộ địa phương, cung cấp đầy đủ dữ liệu và hệ thống thông tin. Song song đó là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan để đảm bảo việc thực thi đúng pháp luật và các nguyên tắc bền vững của Luật.

Thứ tư, minh bạch và trách nhiệm giải trình cần được đặt lên hàng đầu. Việc công khai toàn bộ chu trình khai khoáng, từ cấp phép, giám sát, đến thu hồi và phục hồi môi trường, sẽ tạo niềm tin và thu hút sự tham gia của xã hội. Hệ thống dữ liệu địa chất và khoáng sản quốc gia được xây dựng đồng bộ [Điều 118] sẽ là nền tảng cho sự minh bạch này, đồng thời là cơ sở để đánh giá hiệu quả và trách nhiệm giải trình [Điều 89].

Cuối cùng, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Luật cần tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, nhưng đồng thời phải bảo vệ quyền lợi của người dân, đặc biệt là cộng đồng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động khai khoáng [Điều 8]. Việc ưu tiên bố trí ngân sách cho điều tra cơ bản, và thu hút nguồn lực xã hội hóa cũng sẽ là giải pháp quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển xanh của ngành

Ông Phạm Văn Sơn - Giám đốc SOS, Tổng Thư ký VACNE: "Từ góc nhìn doanh nghiệp và hiệp hội, tôi cho rằng ba yếu tố then chốt là:

Ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tuân thủ Luật, đặc biệt là về phục hồi môi trường và ứng phó sự cố.

Đổi mới công nghệ khai thác và xử lý chất thải, vì chỉ có công nghệ sạch mới dung hòa được lợi ích kinh tế và môi trường.

Xây dựng cơ chế phối hợp ba bên: doanh nghiệp, chính quyền, cộng đồng. Khi cộng đồng được tham gia giám sát, doanh nghiệp sẽ làm tốt hơn, và Luật mới thực sự đi vào đời sống.”

Ông Đào Xuân Hưng - Tổng Biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường: "Ở góc độ báo chí truyền thông chính sách, tôi nhìn nhận yếu tố chiến lược nhất là tạo đồng thuận xã hội. Luật Địa chất và Khoáng sản chỉ phát huy sức mạnh khi người dân, doanh nghiệp và chính quyền cùng hiểu, cùng ủng hộ và thực hiện. Do đó, truyền thông phải biến quy định pháp luật thành ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi, đồng thời làm cầu nối phản ánh tiếng nói của cơ sở để chính sách được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn. Một yếu tố khác là tăng cường vai trò giám sát của báo chí và cộng đồng, đây là lực đẩy quan trọng để Luật thực sự trở thành công cụ quản lý minh bạch.”

MC chương trình: “Kính thưa quý vị, qua phần trao đổi của các diễn giả, chúng ta có thể thấy rằng để Luật Địa chất và Khoáng sản thực sự trở thành công cụ quản lý hiệu quả và động lực cho phát triển xanh, cần hội tụ nhiều yếu tố chiến lược.

Ở góc độ quản lý nhà nước, đó là cơ sở dữ liệu minh bạch và nâng cao năng lực địa phương.

Với doanh nghiệp, yếu tố then chốt là trách nhiệm xã hội và đổi mới công nghệ khai thác sạch.

Về phía truyền thông, nhiệm vụ quan trọng là lan tỏa kiến thức pháp luật, tạo đồng thuận xã hội và thúc đẩy giám sát cộng đồng.

Và từ góc nhìn địa phương, điều cần thiết là kết nối khai thác với quy hoạch phát triển, bảo đảm lợi ích cho cộng đồng dân cư vùng mỏ.

Tất cả những điều đó khi kết hợp đồng bộ sẽ giúp Luật thực sự đi vào cuộc sống, hướng tới mục tiêu khai thác hợp lý, bảo vệ môi trường. phát triển bền vững.”

Các đại biểu tham dự tọa đàm

KẾT LUẬN CHƯƠNG TRÌNH

Tọa đàm mang đến góc nhìn đa chiều về ứng dụng Luật trong đời sống

MC chương trình:

“Kính thưa quý vị đại biểu, quý vị khách quý,

Sau gần hai giờ làm việc nghiêm túc và cởi mở, Toạ đàm hôm nay đã mang đến cho chúng ta nhiều góc nhìn đa chiều, từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp, giới truyền thông cho đến thực tiễn địa phương. Tất cả đều cùng chung một mục tiêu: đưa Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 nhanh chóng đi vào đời sống, trở thành công cụ quản lý minh bạch và động lực phát triển xanh cho đất nước.

Có thể khẳng định rằng, để Luật phát huy hiệu quả, chúng ta cần sự đồng hành đồng bộ: Trung ương và địa phương, Nhà nước và doanh nghiệp, báo chí truyền thông và cộng đồng. Chỉ khi có sự chung tay, chúng ta mới khai thác hợp lý nguồn tài nguyên quý giá, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ môi trường, gìn giữ nguồn lực cho các thế hệ tương lai.

Ban Tổ chức trân trọng cảm ơn các vị diễn giả, cảm ơn quý vị đại biểu đã tham dự và đóng góp ý kiến tâm huyết cho chương trình. Hy vọng rằng, những thông điệp được lan toả từ Toạ đàm hôm nay sẽ tiếp tục được nhân rộng trong thực tiễn, góp phần đưa Luật vào cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả.

Xin chúc quý vị sức khỏe, thành công và hẹn gặp lại trong các sự kiện tiếp theo!

Xin trân trọng cảm ơn và kính chào!”

Hồng Minh - Khánh Linh - Minh Thành

Gửi Bình Luận

code

Tin liên quan

Tin tức

Việt Nam - Nhật Bản: Thúc đẩy hợp tác công nghệ cao và tài nguyên chiến lược

Khẳng định vai trò tiên phong của Việt Nam và Singapore trong nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu

Việt Nam khẳng định trách nhiệm toàn cầu trong bảo vệ tầng ô-dôn

"Thần tốc hành quân" tổ chức thành công Kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khoá XV

Nông nghiệp

Người đi trong bão lũ

Khẳng định vai trò phụ nữ ngành nông nghiệp và môi trường trong thời kỳ mới

"Nông dân 4.0": Ứng dụng công nghệ chuồng lạnh trong chăn nuôi gà

Nghệ An: Công bố quy hoạch Khu Lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao đầu tiên trong cả nước

Tài nguyên

TP. Hồ Chí Minh: Phê duyệt dự án xây dựng Bảng giá đất lần đầu

Hướng dẫn thực hiện làm giàu, làm sạch cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai

Kỳ 2: Cục Địa chất và Khoáng sản - Vai trò then chốt và giải pháp đưa Luật vào cuộc sống

Ninh Bình chú trọng phát triển kinh tế biển bền vững gắn với ứng phó biến đổi khí hậu

Môi trường

Kỳ 1: Những thách thức trong công tác phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường tại Việt Nam

Kiểm lâm Tân Sơn quyết liệt quản lý và phát triển rừng

Bài 2: Bảo tồn và phát triển bền vững Vườn Quốc gia Xuân Sơn - Từ di sản thiên nhiên đến sinh kế cộng đồng

Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng: Nỗ lực hướng tới Danh lục Xanh - Chuẩn mực toàn cầu về bảo tồn bền vững

Video

Giải pháp kiểm soát nguồn gây ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn

Nâng cao chất lượng nội dung và điểm số khoa học trên Tạp chí in Tài nguyên và Môi trường

Nâng cao công tác quản lý nhà nước về môi trường và hỗ trợ các doanh nghiệp

Phụ nữ tiên phong trong phát triển kinh tế tuần hoàn

Khoa học

Học sinh Chu Văn An sáng chế máy gieo hạt tự động, kiến tạo nông nghiệp tương lai

Khai mạc Hội nghị Khoa học công nghệ bảo quản, chế biến nông lâm thuỷ sản và cơ giới hoá nông nghiệp toàn quốc năm 2025

ThS. Lưu Hải Âu: Vượt khó, đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển hệ sinh thái không người lái bầy đàn (Kỳ 2)

933 ứng viên được đề nghị xét công nhận giáo sư, phó giáo sư năm 2025

Chính sách

Phê duyệt Cơ chế điều phối liên ngành về phát triển bền vững kinh tế biển

Kéo dài thời gian Triển lãm thành tựu Đất nước đến hết ngày 15/9/2025

Nghiên cứu, đề xuất giải pháp áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất phù hợp trong thu tiền sử dụng đất

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung ứng phó bão số 6

Phát triển

Thanh Hóa đẩy mạnh chuyển đổi số, hơn 87.000 sản phẩm nông sản lên sàn thương mại điện tử

14 tập thể, 65 cá nhân được vinh danh tại Hội nghị điển hình tiên tiến và phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” giai đoạn 2020-2025

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Triển lãm 80 năm đã thành công rất tốt đẹp, vượt kỳ vọng và sự mong đợi của tất cả chúng ta

Sẵn sàng tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Hưng Yên lần thứ I

Diễn đàn

Thời tiết ngày 17/9: Nhiều khu vực trên cả nước chiều và đêm có mưa dông

Tổng thuật tọa đàm: "Luật Địa chất và Khoáng sản - Nền tảng phát huy hiệu quả nguồn lực địa chất khoáng sản và công nghiệp khai khoáng."

Thời tiết ngày 16/9: Bắc Bộ ngày nắng, Cao nguyên Trung Bộ và Nam Bộ chiều tối mưa dông

Bắc Ninh: Xanh hóa ngành dịch vụ, hướng tới mục tiêu “Net Zero”