20 năm bền bỉ với núi đồi – Kiến tạo nền nông nghiệp sinh thái miền núi phía Bắc

Thứ bảy, 6/12/2025, 09:36 (GMT+7)
logo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (Viện) được thành lập ngày 05/12/2005. Nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập (2005–2025), phóng viên Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với TS. Lưu Ngọc Quyến – Viện trưởng. Hai thập kỷ qua, từ những phòng thí nghiệm chuyên sâu đến các vùng nguyên liệu trải rộng trên khắp miền núi phía Bắc, Viện đã tạo dấu ấn bằng nhiều công trình nghiên cứu giá trị, các giống cây trồng mới và những mô hình chuyển giao kỹ thuật hiệu quả. Trong cuộc trò chuyện, TS. Quyến chia sẻ những thành tựu nổi bật, các khó khăn đặc thù, cũng như định hướng chiến lược cho phát triển nông, lâm nghiệp miền núi phía Bắc trong kỷ nguyên chuyển đổi số.

PV: Sau 20 năm xây dựng và phát triển, đâu là dấu ấn lớn nhất của Viện trong nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ cho khu vực Trung du và miền núi phía Bắc, thưa ông?
TS. Lưu Ngọc Quyến: Điều đáng tự hào nhất của chúng tôi trong 20 năm qua chính là đã tạo ra những tiến bộ kỹ thuật phù hợp cho sản xuất nông nghiệp của vùng Trung du và miền núi phía Bắc – nơi điều kiện tự nhiên rất khắc nghiệt nhưng lại giàu tiềm năng về cây lâu năm, cây đặc sản và dược liệu.

Viện khoa học kĩ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, được thành lập theo Quyết định số 220/2005/QĐ-TTg ngày 09/9/2005 của thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 3407/QĐ-BNN-TCCB ngày 05/12/2005 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT; Viện có tiền thân từ Trạm Nghiên cứu Nông lâm nghiệp Phú Thọ do người Pháp thành lập năm 1918. Trải qua 107 năm xây dựng và phát triển, cơ sở nghiên cứu nông, lâm nghiệp này đã nhiều lần thay đổi tên gọi.

Viện đã chọn tạo và công bố 36 giống cây trồng mới, trong đó có 24 giống chè, 10 giống cây ăn quả, 2 giống lúa thuần. Nhiều giống đã trở thành chủ lực tại địa phương như chè LDP1 (chiếm 80% diện tích Thái Nguyên), PH8, LCT1; hay giống chanh leo Đài Nông 1 phát triển mạnh ở Sơn La – Gia Lai với hàng nghìn hecta.
Bên cạnh đó, chúng tôi đã phục tráng thành công 26 giống cây trồng bản địa, đưa nhiều giống đặc sản trở lại sản xuất quy mô lớn như lúa Séng Cù, lúa Chiêm Hương, Khẩu Nua Lếch, khoai sọ Tủa Chùa, mơ – vải – lê bản địa… Đây là nguồn gen quý giá của vùng, nếu không được bảo tồn kịp thời sẽ đứng trước nguy cơ mai một.

a1-ong-quyen--1_1764913380.webp
TS. Lưu Ngọc Quyến – Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc

Trong chuyển giao, Viện đã xây dựng và chuyển giao trên 1.000 ha mô hình chè chất lượng cao, hơn 20.000 ha chè mới, hơn 200 ha chè hữu cơ, gần 100 ha mô hình cây ăn quả mới; đào tạo gần 1.000 nông dân và hàng trăm kỹ thuật viên.
Đặc biệt, trên 65% diện tích chè của cả nước đang sử dụng những giống chè do Viện chọn, tạo. Nhiều doanh nghiệp, HTX chế biến chè tại Phú Thọ, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Nghệ An, Gia Lai đang sử dụng quy trình công nghệ do Viện chuyển giao. Nhiều giống cây trồng đặc sản địa phương được phục tráng và Viện cũng đóng góp trong phát triển sản phẩm OCOP ở một số tỉnh. Xây dựng mô hình cà phê chè năng suất cao tại Sơn La, Điện Biên, giúp tăng hiệu quả 16%. Phát triển thành công cây ăn quả ôn đới (lê LMN1, đào ĐMN1, hồng MC1) tại Tuyên Quang, Lào Cai, Lai Châu, phù hợp biến đổi khí hậu. Chuyển giao mô hình sản xuất hữu cơ cho các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Lai Châu với hơn 200 ha chè hữu cơ. Phát triển chuỗi giá trị dứa tại Lai Châu, chanh leo tại Sơn La, rau, quả tại Sơn La và Lào Cai, có sự tham gia của doanh nghiệp ngay từ khâu quản lý vùng trồng.

anh-2---danh-gia-vai_1764913381.webp
Cán bộ Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đánh giá mô hình giống vải chín sớm PH40

Ngoài ra, Viện đã thực hiện hiệu quả nhiều dự án hợp tác quốc tế và trở thành đối tác tin cậy của nhiều tổ chức như ACIAR, IRRI, GIZ, CIAT trong phát triển nông nghiệp thông minh, mô hình nông lâm kết hợp, chuyển đổi sinh thái bền vững vùng núi phía Bắc.
Những kết quả này đã khẳng định Viện đã và đang trở thành Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp trọng điểm cho vùng miền núi phía Bắc.
PV: Với một vùng có địa hình chia cắt mạnh, thị trường còn hạn chế, công nghệ bảo quản, chế biến chưa đồng bộ, việc chuyển giao khoa học có gặp trở ngại không?
TS. Lưu Ngọc Quyến: Khó khăn là vô cùng lớn. Thứ nhất, địa hình đồi núi phức tạp, sản xuất manh mún, khiến việc hình thành vùng nguyên liệu quy mô lớn rất khó; Thứ hai, vốn đầu tư cho nông nghiệp;  Thứ ba, cơ sở vật chất nghiên cứu còn thiếu đồng bộ, một số phòng thí nghiệm chưa theo kịp yêu cầu nghiên cứu hiện đại.

anh3---ca-phe-dat-roc_1764913382.webp
Mô hình canh tác cà phê bền vững trên đất dốc tại Sơn La do Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc chuyển giao

Ngoài ra, đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong công nghệ số, sinh học phân tử, bảo quản sau thu hoạch... còn thiếu. Đây là những lĩnh vực cần phải tìm kiếm giải pháp để đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hoá trong vùng.
Một thách thức nữa là khâu liên kết thị trường và thương mại hóa kết quả nghiên cứu chưa thật mạnh. Chúng tôi có nhiều quy trình, nhiều giống tốt, nhưng muốn lan tỏa mạnh phải có doanh nghiệp đồng hành ngay từ đầu chuỗi.
PV: Trong những năm qua, Viện chú trọng như thế nào đến công tác đào tạo nguồn nhân lực khoa học?
TS. Lưu Ngọc Quyến: Đây là nhiệm vụ chúng tôi đặc biệt ưu tiên. Trong 20 năm qua, Viện đã có 17 tiến sĩ, 48 thạc sĩ được đào tạo; 34 lượt cán bộ chuyển ngạch nghiên cứu viên chính/cao cấp; hơn 30 lượt cán bộ được đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài.
Điều đáng mừng là 95% tiến sĩ của Viện hiện là chủ nhiệm nhiệm vụ cấp Bộ hoặc cấp Nhà nước, 70% thạc sĩ giữ vai trò chủ nhiệm nhiệm vụ cấp cơ sở. Đây là nền tảng để Viện phát triển bền vững.

a-nh-4-che_1764913380.webp
Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc đánh giá mô hình chè VietGap tại Phú Thọ

Tuy nhiên, cũng có tình trạng chảy máu chất xám, do thu nhập cán bộ nghiên cứu còn thấp. Trong 20 năm qua, Viện đã chia tay 8 cán bộ trình độ cao. Đây là điều chúng tôi rất trăn trở.
PV: Viện đặt ra những ưu tiên chiến lược nào cho giai đoạn 2025 – 2030 và tầm nhìn 2040?
TS. Lưu Ngọc Quyến: Chúng tôi có 7 định hướng lớn.
Một là, đổi mới cơ chế nghiên cứu theo hướng tự chủ và sắp xếp, tổ chức lại đơn vị để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Hai là, đẩy mạnh công tác chuyển đổi số trong công tác nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật; Xây dựng cơ sở dữ liệu về giống cây trồng, quy trình kỹ thuật, mô hình sản xuất, phục vụ việc xây dựng mã số vùng trồng và truy xuất nguồn gốc.
Ba là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong công nghệ sinh học, công nghệ số và nông nghiệp thông minh, trao đổi chuyên gia với các đơn vị trong và ngoài nước.
Bốn là, tập trung nghiên cứu giống cây trồng chủ lực, đặc sản bản địa, cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu, cây công nghiệp phù hợp sinh thái vùng cao.

Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc có chức năng nhiệm vụ: Xây dựng các chương trình, dự án, kế hoạch nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ nông nghiệp, lâm nghiệp phục vụ phát triển kinh tế xã hội của vùng Trung du miền núi phía Bắc; Nghiên cứu chọn tạo, khảo nghiệm và phát triển giống cây trồng nông lâm nghiệp, cây đặc sản có giá trị hàng hoá cao, phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế của vùng; Nghiên cứu về chè và cà phê chè phục vụ cho địa bàn cả nước; Xây dựng biện pháp kĩ thuật thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao chất lượng nông lâm sản, cải thiện và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đất, nước, bảo vệ môi trường; Nghiên cứu các vấn đề nông thôn và thị trường nông lâm sản trong vùng.

Năm là, nghiên cứu các giải pháp cho việc mở rộng mô hình nông nghiệp bền vững thích ứng biến đổi khí hậu (nông – lâm kết hợp, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp sinh thái,…).
Sáu là, thúc đẩy liên kết doanh nghiệp – nông dân – nhà khoa học, thương mại hóa mạnh hơn sản phẩm nghiên cứu.
Bảy là, tăng cường hợp tác với các tổ chức khoa học quốc tế, doanh nghiệp nước ngoài để tìm kiếm nguồn lực thúc đẩy nghiên cứu, tiếp nhận các công nghệ mới nhất từ các quốc gia như: Australia, EU, New Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc,…
Chúng tôi xác định rõ: Muốn phát triển vùng núi phía Bắc bền vững, phải dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và bảo tồn các giá trị bản địa.
PV: Ông kỳ vọng điều gì cho nền nông nghiệp vùng núi phía Bắc trong 10 năm tới?
TS. Lưu Ngọc Quyến: Tôi kỳ vọng ba điều. Thứ nhất, một vùng nông nghiệp sinh thái, bền vững, giàu bản sắc văn hóa vùng, dựa trên những giống cây trồng, kĩ thuật canh tác, công nghệ sau thu hoạch  phù hợp điều kiện vùng cao. Thứ hai, một thế hệ nông dân mới, am hiểu kỹ thuật và chủ động ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số vào sản xuất. Thứ ba, một hệ sinh thái được kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp – nông dân – nhà khoa học – nhà quản lý để tạo ra những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, hiệu quả cao, trong đó trụ cột là các doanh nghiệp nông nghiệp mạnh, sẵn sàng đầu tư vào chế biến sâu và liên kết chuỗi giá trị.

anh-5---tap-huan_1764913381.webp
Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc tập huấn tái sử dụng vỏ cà phê làm phân compost cho cán bộ địa phương và người dân

Với sự quan tâm của Chính phủ, các tỉnh và sự vào cuộc của cộng đồng khoa học, tôi tin rằng 10 năm tới sẽ là giai đoạn bứt phá mạnh mẽ của nông nghiệp miền núi phía Bắc.
20 năm, chặng đường không quá dài nhưng đủ để Viện KHKT nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc khẳng định vai trò đầu tàu về khoa học công nghệ của vùng trung du, miền núi. Những giống cây mới, những quy trình kỹ thuật, những mô hình canh tác sinh thái, những lớp nông dân được đào tạo,… đã góp phần quan trọng nâng cao sinh kế, bảo vệ rừng và phát triển kinh tế xanh.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và chuyển đổi số mạnh mẽ, những định hướng chiến lược của Viện sẽ tiếp tục tạo nền tảng cho một nền nông nghiệp bền vững và hiện đại hơn.

Theo Quyết định số 08/2006/QĐ-BNN-TCCB của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 06/02/2006 Quy định Viện có chức năng, nhiệm vụ: Nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ về nông lâm nghiệp phục vụ phát triển vùng Trung du, miền núi phía Bắc. Trụ sở chính đặt tại xã Phú Hộ, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. 
Tại xã Phú Hộ, thị xã Phú Thọ tỉnh Phú Thọ, Viện quản lý 250 ha đất, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học. Đây là trụ sở chính, đồng thời là vùng lưu giữ tập đoàn quỹ gen của 170 giống chè, 273 giống cây ăn quả (13 loài), 300 giống lúa cạn, gần 150 giống cao su và một số mẫu giống các cây trồng quí hiếm khác trong vùng, được thu thập trong và ngoài nước. Hệ thống nhà làm việc thuộc dự xây dựng Viện đã hoàn thành và đi vào sử dụng. Viện có phòng thí nghiệm phân tích đất và chất lượng nông sản, phòng nghiên cứu công  nghệ sinh học và 2 xưởng chế biến phục vụ nhu cầu nghiên cứu và phát triển cây trồng nông lâm nghiệp cho các tỉnh Trung du, miền núi phía Bắc. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông lâm nghiệp Tây Bắc thuộc Viện có trụ sở chính đặt tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La với 21,37 ha đất. Trung tâm nghiên cứu và Phát triển Cây ôn đới thuộc Viện có diện tích 4,0 ha đất tại Sa Pa, tỉnh Lào Cai.

PV: Xin trân trọng cảm ơn TS. Lưu Ngọc Quyến!

Đỗ Hùng