
Ảnh minh họa
Một số nghiên cứu điển hình sử dụng các công cụ quản lý trong cắt giảm cung cấp túi nhựa sử dụng 1 lần cho người tiêu dùng như: Tại Hoa Kỳ ở cấp quốc gia chưa có qui định về túi ni-lông, nhưng tại các bang đã bắt đầu thực hiện các chính sách và quy định khác nhau về cấm sử dụng túi ni-lông sử dụng 1 lần (Hội nghị Quốc gia về Cơ quan Lập pháp Bang (NCSL), 2016). Chính quyền các bang đã áp dụng 5 chiến lược để giảm sử dụng túi sử dụng 1 lần bao gồm 5 công cụ chính như sau: Pháp lý, thuế và phí, thiết kế túi sử dụng phù hợp, giáo dục người tiêu dùng và yêu cầu bắt buộc nhà bán hàng tổ chức thu hồi bao bì.
Cả 5 công cụ này đều phát huy tác dụng tuy nhiên cũng tồn tại một số nhược điểm. Có 271 chính quyền địa phương tại Hoa Kỳ có quy định về túi nhựa áp dụng cho 9,7% dân số cả nước. Phần lớn (95%) các sắc lệnh là cấm sử dụng túi nhựa dùng một lần; 56,9% trong số các lệnh cấm này cũng bao gồm phí bắt buộc đối với giấy và/hoặc túi có thể tái sử dụng.
Đối với các quy định tính phí, mức thu là 0,10 USD/túi; mọi sắc lệnh về thuế/phí đều cho phép các nhà bán lẻ giữ lại một phần hoặc toàn bộ khoản phí đã thu. Quy định bắt buộc các nhà bán lẻ phải có trách nhiệm thu hồi các túi ni-lông đã cấp cho khách hàng để tái chế.
Quy định khuyến khích các cửa hàng tạo mọi điều kiện để người mua hàng đem túi ni-lông trả lại để tái chế như tăng các điểm tiếp nhận túi đã sử dụng, tuy nhiên hiệu quả của biện pháp cũng không cao. Tỷ lệ tái chế túi mua sắm bằng nhựa ở Illinois là 1,5% trong năm 2009 (IDECO, 2009) vàở California, 3% (CalRecycle, 2010). Tỷ lệ thu hồi túi sử dụng 1 lần thấp, do đặc tính của túi nhựa sử dụng 1 lần có nhiều thành phần gây khó khăn cho hoạt động tái chế. Ban hành lệnh cấm với túi ni-lông sử dụng 1 lần trong đựng hàng hóa, việc tiêu thụ túi không bị cấm khác sẽ tăng lên. Năm 2007 San Francisco là thành phố đầu tiên ở Mỹ cấm túi nhựa tại các cửa hàng tạp hóa và bán lẻ lớn. Taylor và Villas-Boas (2016) nhận thấy rằng với lệnh cấm túi nhựa, một số người tiêu dùng chuyển sang sử dụng túi giấy và túi tái sử dụng. Họ nhận thấy số lượng túi giấy đã tăng đáng kể từ khoảng 5% trước khi có lệnh cấm lên 46,5% sau lệnh cấm.
Tuy nhiên, các cửa hàng bán túi tái sử dụng rẻ tiền (tức là 0,15 USD), mức tiêu thụ túi giấy chỉ tăng lên 10% (Taylor và Villas-Boas, 2016). Lệnh cấm túi nhựa đồng nghĩa với việc người dân sẽ tăng mua túi đựng rác bằng nhựa.
Thế giới đã thay thế và chuyển đổi hình thức sử dụng túi tại các hệ thống siêu thị
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các túi nhựa sử dụng 1 lần đã được tái sử dụng trước khi vứt bỏ. Kết quả khảo sát năm 2007, 51% túi nhựa mua đồ ở California đã được tái sử dụng trong số đó có đến 55% là tái sử dụng làm túi đựng rác (AECOM, 2010).
Tại Quận Los Angeles sau khi áp dụng lệnh cấm túi nhựa kết hợp với khoản phí 0,05 USD đối với túi giấy, 72 cơ sở bán lẻ không phân phát túi nhựa nhưng lượng sử dụng túi giấy chỉ giảm 16%. Taylor và Villas-Boas (2016) nhận thấy tại các cửa hàng thực hiện lệnh cấm và thu phí túi giấy, khoảng 47% khách hàng mang theo túi có thể tái sử dụng và khoảng 30% mang theo túi dùng một lần để tái sử dụng. Tại Santa Barbara, California, sau khi áp dụng mức phí 0,10 USD đối với túi giấy cùng với lệnh cấm túi nhựa, tổng mức tiêu thụ túi đã giảm 89,3% (Santa Barbara, 2016). Sau khi áp dụng khoản phí 0,10 USD ở San Mateo, California, đối với tất cả các túi giấy hoặc túi tái sử dụng và lệnh cấm phát miễn phí túi nhựa sử dụng một lần, số người sử dụng túi tái sử dụng trong mua sắm đã tăng 161,5% và số người không sử dụng túi trong mua sắm đã tăng 130,4%. Số liệu cũng cho thấy số người sử dụng túi nhựa đã giảm 65,8% (San Mateo, 2014).
Theo kết quả khảo sát của Prendergast et al. (2001), túi mua sắm bằng nhựa đã được tái sử dụng 1,6 lần và túi mua hàng giấy được tái sử dụng 2,7 lần. Ở Seattle, WA, lệnh cấm túi mua sắm bằng nhựa, loại trừ các cơ sở dịch vụ ăn uống như nhà hàng, cùng với phí 0,05 USD đối với túi mua sắm bằng giấy, có hiệu lực từ năm 2012. Dựa trên đặc tính chất thải, từ năm 2010 đến năm 2014, lượng túi nhựa trong rác thải sinh hoạt đã giảm gần 50%. Tuy nhiên, mặt trái là khi lệnh cấm có hiệu lực, một số cửa hàng đã dỡ bỏ điểm thu gom túi nhựa dẫn đến sự gia tăng số lượng túi nhựa trong hệ thống thu gom tại nhà dân. Đối với việc áp dụng công cụ thu phí làm cho thấy nhược điểm là làm tăng chi phí cho người tiêu dùng và chi phí hành chính cho nhà bán lẻ và cơ quan quản lý.
Nghiên cứu của Homonoff (2013) đã phát hiện ra rằng tại điểm bán hàng việc tính phí có hiệu quả giảm mức tiêu thụ so với việc đưa ra phần thưởng hoặc điểm thưởng khi người tiêu dùng không nhận túi sử dụng một lần. Theo Rivers và cộng sự. (2017), việc thu một khoản phí rất nhỏ nhưng riêng biệt và rõ ràng đối với túi sử dụng một lần là một cú hích nhằm điều chỉnh hành vi hướng dẫn người tiêu dùng tới sống xanh không sử dụng túi ni-lông 1 lần. Năm 1989, Cơ quan lập pháp Maine đã ban hành luật yêu cầu các cơ sở bán lẻ chỉ cung cấp túi mua sắm bằng giấy tại điểm bán hàng, chỉ cung cấp túi nhựa khi được khách hàng yêu cầu, đây là một loại ''lệnh cấm mềm'' (Wagner, 2016). Thực thi luật này bước đầu thu được kết quả thành công việc giảm tiêu thụ túi nhựa, cụ thể: làm giảm 267 triệu túi nhựa, nhưng lại tăng tương ứng là 254 triệu túi giấy dẫn đến việc tăng chi phí đáng kể cho các nhà bán lẻ. Với các nhược điểm như tăng chi phí và nhu cầu sử dụng túi giấy kết quả phải hủy bỏ luật này (Wagner, 2016). Các biện pháp nâng cao nhận thức có nhược điểm khó thực hiện và tốn kém để tổ chức và duy trì. Giải pháp bắt buộc nhà bán lẻ thu hồi bao bì có thể thực thi nếu chỉ cần cung cấp thùng chứa, nhược điểm có thể dẫn đến tăng mức tiêu thụ túi do hiệu ứng cho rằng việc sử dụng đã được phép.
Thuế túi đầu tiên được Ireland khởi xướng vào năm 2002. Ireland đánh thuế 0,15 € đối với túi ni-lông tại điểm bán hàng với mục tiêu là thay đổi hành vi của người tiêu dùng nhằm giảm nhu cầu về túi ni-lông dùng một lần (Convery et al., 2007). Mức giảm tiêu thụ túi ni-lông bình quân đầu người ban đầu là 90% từ 328 túi/người/năm xuống còn 21 túi/người/năm (Rucker và cộng sự, 2008). Sau đó, mức tiêu thụ bình quân đầu người hàng năm tăng lên 31 túi túi/người/năm, “hiệu ứng phục hồi”, khiến thuế mỗi túi tăng lên € 0,22 (Rucker và cộng sự, 2008). Hiệu ứng phục hồi cũng được quan sát thấy ở Nam Phi, trong đó việc áp dụng phí đối với túi ni-lông ban đầu làm giảm mức tiêu thụ nhưng mức tiêu thụ tăng đều đặn theo thời gian một phần là do phí giảm.
Nghiên cứu Homonoff (2013) nhận thấy rằng tại quận Montgomery, MD, nơi áp dụng phí 0,05 USD cho tất cả các túi sử dụng một lần. Trước khi áp dụng thuế 82% khách hàng sử dụng ít nhất một túi dùng một lần cho mỗi lần mua sắm. Sau thuế khi áp thuế con số này giảm xuống còn 40%. Dựa trên một cuộc khảo sát sau khi áp thuế đối với các doanh nghiệp ở Washington, DC, 79% doanh nghiệp trả lời rằng họ cung cấp túi ít hơn, trung bình tổng số túi phân phối giảm khoảng 47% (OpinionWorks, 2013).
Tại Victoria, Australia, năm 2008 đã áp dụng thuế đối với túi nhựa là 0,10 USD/túi, thời gian thử nghiệm kéo dài hai tháng đã giúp giảm 79% lượng túi nhựa (Lewis và cộng sự, 2010). Tương tự tại Bồ Đào Nha theo kết quả khảo sát về thu thuế túi nhựa cho thấy, áp thuế đã làm giảm số lượng túi nhựa tiêu thụ từ 2,25 xuống 0,59 túi/người/lần mua sắm. Kết quả khảo sát cho thấy công cụ thuế làm tăng tỷ lệ người dân tái sử dụng túi nhựa. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy rằng lượng mua túi đựng rác bằng nhựa tăng 12% sau thuế túi nhựa.
Tại Trung Quốc, năm 2008, Chính phủ Trung Quốc quy định tính phí khi cung cấp túi nhựa. Chính sách này yêu cầu tất cả các siêu thị và đơn vị bán lẻ trên toàn quốc phải tính phí người tiêu dùng khi cung cấp túi nhựa cho họ. Một nghiên cứu vào năm 2012 cho thấy chính sách này đã giúp cắt giảm 49% lượng túi nhựa; tính phí chủ yếu xảy ra tại các siêu thị, và ở các chợ truyền thống thì ít hơn; tỷ lệ sử dụng túi nhựa mới trung bình mỗi tuần trên người đã giảm từ 21 xuống 11; và tần suất tái sử dụng túi nhựa tăng từ 0,7 lên 1,3 (He 2012).
Tại Campuchia, năm 2019, Campuchia thực hiện thu phí đối với túi nhựa. Trên toàn quốc, tất cả các siêu thị và trung tâm thương mại bị yêu cầu tính phí 400 riel Campuchia (0,10 USD) cho mỗi túi nhựa. Mặc dù tác động tổng thể của biện pháp này vẫn chưa rõ ràng, nhưng phỏng vấn thực hiện với một số siêu thị cho thấy 2/3 trong số các siêu thị này đang thực hiện biện pháp này và số lượng túi nhựa mà họ cung cấp đã giảm 50%. Các vấn đề trong việc áp dụng chính sách này bao gồm không có báo cáo, không có nơi giúp các siêu thị giữ khoản phí thu được, và không có yêu cầu ghi chép và cung cấp thông tin về việc thực hiện thu phí. Người tiêu dùng cũng không được thông báo về sự thay đổi trong chính sách, và nhiều người đã rất ngạc nhiên khi bị yêu cầu phải trả phí. Về phía chính phủ cũng chưa có sự thực thi nghiêm túc giúp đảm bảo việc thực hiện thu phí (UNDP 2019).
Nâng cao nhận thức rộng rãi của công chúng về tác hại do nhựa gây ra đối với con người, động vật và đa dạng sinh học, tiến hành nhiều nghiên cứu hơn về ý nghĩa sức khỏe liên quan đến nhựa cũng là một giải pháp để tăng cường giảm thiểu rác thải nhựa. Đi cùng với đó là các giải pháp nghiên cứu, phát triển các vật liệu mới, an toàn, bền vững hơn để thay thế nhựa.
Nguyên Minh
Bài tiếp theo: Kinh nghiệm khuyến khích các nhà bản lẻ tự nguyện thực hiện giảm thiểu tác thải nhựa