Báo chí, truyền thông trong xu thế chuyển đổi số

Thứ ba, 21/6/2022, 09:32 (GMT+7)
logo Chuyển đổi số báo chí, truyền thông cũng như các lĩnh vực khác đưa lại nhiều lợi ích. Việc ứng dụng công nghệ số cho phép tự động hóa quy trình tác nghiệp làm giảm các chi phí hoạt động, nâng cao hiệu suất kinh doanh. Việc tự động hóa được triển khai không chỉ trong một bộ phận, một chức năng, mà ở toàn bộ quy trình. Bên cạnh việc giảm chi phí còn rút ngắn, đẩy nhanh các công đoạn, góp phần đáp ứng nhu cầu của thị trường kịp thời hơn, thu hút được sự quan tâm hơn của công chúng. Nhân dịp 97 năm ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21/6/1925-21/6/2022), Tạp chí Tài nguyên và Môi trường giới thiệu bài viết về xu thế chuyển đổi số của báo chí, truyền thông nước ta.

Báo chí, truyền thông trong xu thế chuyển đổi số

Ảnh minh họa

Vai trò, lợi ích của chuyển đổi số báo chí, truyền thông

Chuyển đổi số báo chí, truyền thông hiện nay ở Việt Nam có không ít thuận lợi, mà trước hết là quyết tâm chính trị và chủ trương thúc đẩy quá trình chuyển đổi số ở cấp chiến lược. Tháng 9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52- NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày 3/6/2020, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” hướng đến mục tiêu kép là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực cạnh tranh toàn cầu. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm việc, cách sống, đẩy mạnh cải cách thể chế, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; thực hiện quyết liệt chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số”. Bộ TT&TT đã xây dựng Chương trình Hỗ trợ chuyển đổi số cho các cơ quan báo chí, theo đó, hỗ trợ 3 nền tảng giúp các cơ quan báo chí chuyển đổi số: Nền tảng Quản lý tòa soạn điện tử, cho phép xây dựng tòa soạn hội tụ công nghệ hiện đại, đưa toàn bộ nghiệp vụ báo chí lên môi trường số; nền tảng Phân tích thông tin, dư luận trên mạng xã hội, giúp các cơ quan báo chí nắm bắt kịp thời thông tin, dư luận xã hội, nhờ đó nhận biết được nhu cầu thông tin, có tin bài đáp ứng đúng mong muốn của người đọc, đúng thời điểm người đọc cần; nền tảng Hỗ trợ phòng chống tấn công và ứng cứu khẩn cấp cho hệ thống thông tin của các cơ quan báo chí nhằm tạo lá chắn, bảo vệ hoạt động trên môi trường số cho cơ quan báo chí.

Đặc biệt, Việt Nam có hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) viễn thông khá tốt, phủ sóng rộng, mật độ người dùng cao (hơn 70% người dân sử dụng internet, thiết bị thông minh) và người Việt Nam ham mê, thích sử dụng công nghệ; dân số Việt Nam trẻ, sáng tạo, thích ứng nhanh, được đào tạo tương đối tốt, lao động chăm chỉ, có truyền thống học hành và đọc sách, báo,… là những lợi thế cho quá trình chuyển đổi số nói chung, trong lĩnh vực báo chí, truyền thông nói riêng. Ngoài ra, do điều kiện lịch sử trong phát triển, quá trình hiện đại hóa, số hóa muộn hơn so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, nền kinh tế Việt Nam chưa bị trói buộc vào các công nghệ cũ và có tiềm năng để ứng dụng các công nghệ mới. Đây chính là lợi thế của nước đi sau trong tiến trình hiện đại hóa.

Tuy nhiên, không phải tất cả những người có trách nhiệm trong đơn vị báo chí, truyền thông, hiểu thấu đáo được vai trò, lợi ích của chuyển đổi số. Với những thói quen, cách làm cũ đã thấm sâu trong suy nghĩ và hành động, làm cho họ ngại cái mới, vô hình chung trở thành lực cản của quá trình chuyển đổi số, nên trên thực tế quá trình chuyển đổi số trong các cơ quan báo chí, truyền thông của Việt Nam còn chậm, đa phần các cơ quan bao chí, truyền thông mới bắt đầu ở giai đoạn ứng dụng công nghệ thông tin trong quy trình tác nghiệp, ít có cơ quan báo chí, truyền thông có những sản phẩm, dịch vụ báo chí truyền thông mới.

Có thể thấy, trong thời gian dài báo chí, truyền thông chủ yếu dựa vào NSNN cấp để hoạt động. Cùng với quá trình chuyển sang thực hiện cơ chế thị trường trong sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, báo chí, truyền thông cũng đã có bước chuyển, tuy nhiên còn chậm, số các cơ quan báo chí tự chủ không nhiều. Đồng thời, rào cản chủ yếu khiến doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp trong lĩnh vực báo chí, truyền thông nói riêng gặp khó khăn trong chuyển đổi số, và cũng là điểm nghẽn đối với sự phát triển của ngành CNTT Việt Nam là về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Hiện nay, riêng về CNTT, năm 2020 Việt Nam thiếu 400.000 nhân sự, năm 2021 con số này rơi vào khoảng 500.000 nhân sự. Để chuyển đổi số thành công, không chỉ cần đội ngũ phóng viên, biên tập viên có chuyên môn nghiệp vụ giỏi mà đi liền cần hiểu biết về công nghệ mới. Đây là điểm yếu trong khâu đào tạo thuộc hệ thống các trường báo chí, truyền thông của Việt Nam, mặc dù trong những năm qua cũng đã có sự điều chỉnh khắc phục dần, song thực tế vẫn chưa đáp ứng tốt nhu cầu.

Mặt khác, để chuyển đổi số có hiệu quả, thành công hay không, một trong những thách thức quan trọng là phải bảo đảm an ninh thông tin và thị trường báo chí, truyền thông. Trên không gian mạng nguy cơ bị đánh cắp thông tin cá nhân, tấn công chiếm dụng dữ liệu người dùng luôn thường trực. Việc cập nhật các giải pháp tiên tiến, từ công nghệ, dịch vụ đến con người, quy trình nhằm đảm bảo an toàn, an ninh thông tin là vô cùng quan trọng.

Giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển đổi số báo chí

Thứ nhất, chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức. Do vậy, cần truyền thông làm rõ nội dung, vai trò và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi số nói chung và trong lĩnh vực báo chí, truyền thông nói riêng để tạo quyết tâm, đồng thuận. Với báo chí và truyền thông, chuyển đổi số là con đường để báo chí, truyền thông phát triển, thực hiện các chức năng của mình trong kỷ nguyên số. Các đơn vị báo chí và truyền thông cần đẩy mạnh quá trình này, xem chuyển đổi số là chiến lược phát triển trọng tâm và hình thành chiến lược chuyển đổi số phù hợp với điều kiện và mục tiêu phát triển chung.

Thứ hai, nghiên cứu, xây dựng hệ thống thể chế nói chung, nhất là các thể chế liên quan đến hoạt động kinh doanh của báo chí, truyền thông trong môi trường số. Chuyển đổi số không chỉ là cuộc cách mạng của công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: Công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Kinh doanh trên nền tảng số có những đặc điểm khác biệt, nên cần có quy định phù hợp, mở đường cho phát triển các mô hình mới, các dạng sản phẩm và dịch vụ mới, cũng như tạo cơ chế giao tiếp về nội dung, tài chính, quyền sở hữu tương thích trong môi trường số.

Thứ ba, cần tổ chức đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực có chuyên môn, bản lĩnh đi liền nắm vững kỹ năng tác nghiệp trên môi trường số. Nguồn nhân lực là giải pháp quan trọng nhất bảo đảm thành công cho quá trình chuyển đổi số trong các cơ quan báo chí, truyền thông. Trong môi trường số, kể cả có phát minh về người máy cũng không thể thay thế hoàn toàn đội ngũ phóng viên báo chí. Tuy nhiên, phóng viên, biên tập viên trong môi trường số đòi hỏi phải đa năng. Do vậy, cần đổi mới cả nội dung đào tạo và phương pháp đào tạo gắn với yêu cầu tác nghiệp trong tòa soạn hội tụ. Đào tạo lý thuyết gắn liền với thực hành các kỹ năng tác nghiệp, thực hiện liên kết nhà trường với đơn vị báo chí, truyền thông, nơi sử dụng lao động; đào tạo kỹ năng chuyên môn và công nghệ thông tin đi liền với giáo dục đạo đức và trách nhiệm, sứ mệnh người làm báo.

Thứ tư, đầu tư nguồn lực hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, bảo đảm an ninh và điều kiện tác nghiệp trên môi trường số. Việc bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động kinh doanh trong môi trường số, ngoài các quy định pháp luật, ý thức và trình độ phóng viên, thì hạ tầng công nghệ hiện đại là điều kiện không thể thiếu.

Thứ năm, hợp tác, liên kết giữa các chủ thể trên thị trường báo chí, truyền thông trong thực hiện chuyển đổi số. Chuyển đổi số báo chí, truyền thông không thể thành công khi mỗi đơn vị tự độc lập tiến hành. Quá trình này cần có sự gắn kết giữa các cơ quan báo chí, truyền thông với các công ty công nghệ cũng như sự hỗ trợ của bộ chuyên ngành (Bộ TT&TT). Việc liên kết, hợp tác mở ra cơ hội phát triển cho mỗi chủ thể và chính quá trình này làm giàu thêm hệ thống dữ liệu. Cùng với việc đầu tư tạo lập cơ sở hạ tầng mở gắn với việc làm giàu thêm dữ liệu số là hai động lực chính của quá trình chuyển đổi số báo chí, truyền thông.

TS. BÙI TRƯỜNG GIANG, PGS.TS. VŨ VĂN HÀ

Hội đồng Lý luận Trung ương