Bảo đảm tiêu chí môi trường trong triển khai xây dựng nông thôn mới

Thứ hai, 27/12/2021, 17:28 (GMT+7)
logo Môi trường và chất lượng môi trường sống là những tiêu chí quan trọng của Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên, việc tổ chức thực hiện tiêu chí về môi trường trong xây dựng nông thôn mới ở nước ta chưa đồng đều, còn nhiều bất cập. Giai đoạn 2021 - 2025, sẽ được tính toán phù hợp theo các cấp độ đạt chuẩn, nâng cao, kiểu mẫu đối với cấp xã và huyện để nông thôn mới có những chuyển biến về chất.

Bảo đảm tiêu chí môi trường trong triển khai xây dựng nông thôn mới

Ảnh minh họa.

Môi trường - tiêu chí “khó” trong triển khai xây dựng nông thôn mới

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM), đã trở thành một phong trào rộng lớn, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Với sự vào cuộc quyết liệt của nhiều cấp ủy, chính quyền các cấp, sự hưởng ứng và tham gia tích cực của người dân, Chương trình NTM đã đạt được kết quả bước đầu khả quan, tạo ra bộ mặt tươi mới cho nông thôn Việt Nam, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đời sống nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, tiêu chí môi trường (TCMT) trong Chương trình vẫn là tiêu chí khó thực hiện nhất.

Số liệu báo cáo cho thấy, nước ta hiện có hơn 5.800 xã đạt tiêu chí về môi trường. Nhằm bảo đảm tiêu chí môi trường, các địa phương đã vận dụng sáng tạo và ban hành nhiều cơ chế, chính sách phù hợp điều kiện thực tế, đẩy nhanh hoàn thành tiêu chí này. Tiêu biểu như các tỉnh: Bắc Giang, Thanh Hóa, Phú Yên có cơ chế, chính sách hỗ trợ thu gom, xử lý rác thải, chất thải rắn sinh hoạt, đầu tư lò đốt rác,... xây dựng các mô hình xanh, sạch, đẹp. Nhiều mô hình cải tạo cảnh quan ở thôn, bản, ấp đã được các địa phương áp dụng sáng tạo như con đường, làng bích họa, dòng sông không rác, biến bãi rác thành vườn hoa, tuyến đường xanh, sạch, đẹp. Tại Đồng Nai, Hậu Giang, Trà Vinh, Hà Tĩnh, Nam Định,… số huyện có tuyến đường trồng cây xanh, hoa đạt hơn 50%.

Đến hết Quý 1/2020, có 42 trong số 63 tỉnh, thành phố có kế hoạch xử lý rác thải tập trung ở nông thôn; trong đó một số địa phương triển khai trên phạm vi toàn tỉnh (như Nam Định, Đồng Nai, Hà Tĩnh); có 16 trong số 63 địa phương phê duyệt chủ trương đầu tư các nhà máy xử lý chất thải rắn nông thôn quy mô liên huyện và cấp tỉnh là: TP. Hà Nội, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Trà Vinh, Bạc Liêu.

Quá trình đô thị hóa tăng nhanh bên cạnh những tác động tích cực, thì còn có những mặt trái như là tác động xấu đến môi trường, trong đó không thể tránh khỏi việc môi trường sống của con người đang bị đe dọa, suy thoái nghiêm trọng bởi ô nhiễm từ các chất thải, nước thải của các khu công nghiệp, làng nghề, khu dân cư,... Vì vậy, việc xây dựng NTM đặt ra mục tiêu, tiêu chí cho các vùng nông thôn cũng vừa là thách thức, vừa là động lực, cơ hội để bộ mặt nông thôn khởi sắc trên đà phát triển. Song, vấn đề cốt lõi là suy nghĩ và hành xử đúng mực của con người đối với thiên nhiên, môi trường.

Kinh nghiệm tổ chức thực thi xây dựng NTM cho thấy, TCMT là tiêu chí khó thực hiện nhất. Nguyên nhân là do môi trường nông thôn đang chịu sức ép ô nhiễm ngày càng lớn từ sự gia tăng dân số, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi, bỏ trống khâu xử lý chất thải trong chăn nuôi, chất thải nông nghiệp, sinh hoạt, sản xuất nghề,… Cụ thể, tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia trên địa bàn nông thôn chưa bảo đảm yêu cầu, tỷ lệ đạt thấp. Ranh giới giữa nước sạch và nước hợp vệ sinh còn chưa rõ ràng, nhiều xã mới chỉ đạt tiêu chuẩn nước hợp vệ sinh chứ chưa đạt tiêu chuẩn nước sạch.

Các hộ chăn nuôi gia đình dù đã xử lý môi trường nhưng không triệt để, gây thất thoát xả thải ra môi trường; chưa kể đến những doanh nghiệp vì lợi nhuận mà bất chấp tính mạng và sức khỏe của người dân, gây hậu quả nghiêm trọng. Mặt khác, các cơ sở sản xuất kinh doanh đa phần nhỏ lẻ, vốn ít, công nghệ lạc hậu, việc xử lý môi trường là tự phát, chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường; các làng nghề chưa được quy hoạch, gây ÔNMT; ý thức của chủ doanh nghiệp chưa cao, còn tư tưởng chạy theo lợi nhuận,... là những nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường. Bên cạnh đó, chất thải rắn phát sinh từ các hộ gia đình, nhà kho, chợ, trường học, bệnh viện, làng nghề,... cũng ảnh hưởng môi trường nông thôn trong nhiều năm qua. Mặc dù, nhiều địa phương đã có những giải pháp tích cực như ra nghị quyết chuyên đề, giao cho các đoàn thể phụ trách, hỗ trợ một phần kinh phí cho người dân, xây lò đốt rác thải tại gia đình để giảm thiểu ô nhiễm, song dường như mới chỉ là giải pháp tạm thời, chưa có tính bền vững lâu dài.

Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

Bảo đảm tiêu chí môi trường trong triển khai xây dựng nông thôn mới

Xây dựng nông thôn mới tại huyện Định Quán.

Đồng Nai có tổng diện tích tự nhiên hơn 5.900 km2, với dân số trên 3 triệu người trong đó hơn 60% dân cư sống vùng nông thôn, có 37 dân tộc và 10 tôn giáo. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính cấp huyện (9 huyện, 2 thành phố); 171 đơn vị hành chính cấp xã (có 133 xã xây dựng nông thôn mới - NTM).

Trong xây dựng NTM, xác định TCMT là tiêu chí khó hoàn thành nhất, nên tỉnh Đồng Nai đã chú trọng xây dựng môi trường NTM, cụ thể:

Tỉnh luôn xác định BVMT là bộ phận cấu thành không tách rời của quá trình phát triển; đầu tư cho BVMT là đầu tư cho phát triển bền vững, bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Trong công tác thu gom, xử lý chất thải, tỉnh đã quy hoạch các khu xử lý rác thải rắn đủ đáp ứng nhu cầu xử lý rác cho địa bàn các huyện và các địa phương lân cận; trên địa bàn tỉnh hiện có 9 khu xử lý, với tổng diện tích quy hoạch 438,6 ha; đồng thời trên địa bàn các huyện xây dựng các điểm tiếp nhận rác hàng ngày với quy mô xã, liên xã. Trên cơ sở quy hoạch, tỉnh chỉ đạo các huyện đã xây dựng kế hoạch di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ra khỏi khu dân cư, kế hoạch BVMT đến năm năm 2020; đồng thời đề ra các giải pháp, lộ trình thực hiện, phương hướng giảm thiểu các tác động môi trường cụ thể cho từng năm và giao cho các đơn vị chủ trì thực hiện và kiểm tra, đánh giá từng mục tiêu, kế hoạch đã đề ra.

Cùng với đó, tỉnh huy động mọi nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, sự tham gia của các thành phần kinh tế đầu tư cho công tác BVMT. Trong các năm qua, đã có hàng trăm hợp tác xã và tổ chức dịch vụ môi trường thực hiện thu gom, xử lý rác thải cho tất cả các xã xây dựng NTM trên địa bàn, trong đó công tác phân loại rác tại nguồn đạt 68%. Việc hình thành các tổ thu gom rác vừa đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa tạo công ăn việc làm người lao động nông thôn. Đồng thời, tỉnh đã khuyến khích, huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế, đầu tư các nhà máy xử lý rác thải tập trung tại một số huyện nhằm bảo vệ tốt môi trường nông thôn (huyện Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Cẩm Mỹ, Trảng Bom,…). Qua đó, vừa đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa tạo công ăn việc làm cho người lao động nông thôn. Đối với các hộ dân sống những nơi xa khu dân cư, tổ chức vận động và hướng dẫn người dân phân loại và xử lý chôn lấp hợp lý; rác thu gom được đưa về xử lý tại các khu xử lý rác tập trung.

Là địa phương có các khu, cụm công nghiệp (KCN, CCN) lớn nhất cả nước, trên cơ sở quy hoạch, tỉnh đã kêu gọi các doanh nghiệp xây dựng và đầu tư hệ thống xử lý chất thải tập trung trong các KCN, CNC. Hiện nay, toàn tỉnh có 31/32 KCN có dự án đi vào hoạt động; trong đó, 31/31 KCN đang hoạt động về cơ bản đều đã xây dựng hoàn thành hệ thống xử lý nước thải.

Ngoài ra, Đồng Nai đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho cộng đồng, doanh nghiệp, người dân về BVMT trong xây dựng NTM, nghiêm túc thực hiện đăng ký bản cam kết BVMT đến từng hộ dân; tích cực hưởng ứng các ngày lễ về môi trường như: “Ngày nước Thế giới 22/3”; “Giờ Trái đất”; “Ngày Quốc tế đa dạng sinh học”. “Ngày Môi trường Thế giới 5/6”, “Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn”,… Thực hiện tốt những phong trào, mô hình BVMT tự quản trong dân cư.

Nhằm giảm thiểu và nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, tỉnh đã tuyên truyền, hướng dẫn người dân trong việc thu gom bao bì, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật theo đúng quy trình. Từ năm 2017 đến nay, đã lặp đặt được 1.149 bể thu gom thuốc bảo vệ thực vật; thu gom được 12.256,5 kg bao gói thuốc BVTV; sử dụng giống tốt, xây dựng chuồng trại tiên tiến, xử lý chất thải, nước thải trong chăn nuôi, hầu hết các điểm chăn nuôi đều sử dụng hệ thống biogaz, đệm lót sinh học,… Đặc biệt, tỉnh thực hiện tốt công tác theo dõi, kiểm tra, nhằm ngăn ngừa và xử lý kịp thời, triệt để với các sai phạm về công tác môi trường, nhất là việc ngăn ngừa; khách quan trong công tác đánh giá công nhận tiêu chí môi trường (không du di, không cho nợ). Tổ chức hậu thẩm tra đối với các địa phương đã được công nhận và đang trong quá trình công nhận xã/huyện đạt chuẩn NTM. Khuyến khích các cơ sở tận thu, tái chế, tái sử dụng và xử lý tại chỗ các loại chất thải (cơ sở xử lý chất thải Thanh Tùng - huyện Vĩnh Cửu đã tái chế các loại chất thải đề làm gạch, can nhựa).

 Như vậy, theo đặc thù kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường của từng vùng, địa phương, tỉnh đã có các hình thức tổ chức, triển khai thực hiện các quy định về BVMT phù hợp, góp phần thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng NTM. Đấy cũng là những kinh nghiệm thực tiễn để các địa phương khác học tập, tham khảo.

Hướng đến xây dựng nông thôn mới bền vững

Để triển khai hiệu quả Chương trình NTM, các nhà quản lý, chuyên gia trong nước có chung tầm nhìn trong thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Một là, xác định phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, thời gian qua cấp ủy đảng, chính quyền các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Qua đó, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, quyết tâm hoàn thành phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM theo mục tiêu, kế hoạch đề ra, tạo việc làm, nâng cao đời sống người dân.

Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, phát huy sự tham gia tích cực chủ động của nhân dân thực hiện và giám sát Chương trình NTM. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch; tạo điều kiện để người dân thực sự là chủ thể thực hiện Chương trình NTM.

Ba là, các địa phương tập trung chỉ đạo các xã đã đạt các tiêu chí xây dựng NTM phải hoàn thiện nâng cao chất lượng xây dựng NTM bền vững. Đối với các địa phương chưa có nhiều xã đạt chuẩn NTM, phải chỉ đạo các xã điểm để làm cơ sở rút kinh nghiệm trên diện rộng. Huy động, lồng ghép các nguồn lực nâng cấp cơ sở hạ tầng thiết yếu, nhất là cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế; chú trọng thực hiện nội dung phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn, xóa đói, giảm nghèo gắn với việc thực hiện chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trên địa bàn; ưu tiên nghiên cứu và chuyển giao KHCN, xây dựng mô hình nông nghiệp công nghệ cao.

Bốn là, để đạt được tiêu chí môi trường, các địa phương cần hoàn thành 8 chỉ tiêu: Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia đạt từ 90% trở lên; tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch đạt từ 50% trở lên; tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy định về BVMT đạt 100%; đạt yêu cầu về xây dựng cảnh quan, môi trường xanh - sạch - đẹp, an toàn; mai táng phù hợp với quy định và theo quy hoạch; chất thải rắn trên địa bàn và nước thải khu dân cư tập trung, cơ sở sản xuất kinh doanh được thu gom, xử lý theo quy định; tỷ lệ hộ có nhà tiêu, nhà tắm, bể chứa nước sinh hoạt hợp vệ sinh và đảm bảo “3 sạch” đạt từ 70% trở lên; tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường đạt từ 60% trở lên; tỷ lệ hộ gia đình và cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn thực phẩm đạt 100%.

TS. TRẦN THỊ TÚ QUYÊN

Học viện Chính trị khu vực I