
Ảnh minh họa
Vùng Duyên hải miền Trung (DHMT) của Việt Nam có ranh giới địa lý gồm 14 tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận với bờ biển dài 1200 km, được cấu tạo bởi một dải đất nằm giữa dãy Trường Sơn về phía Bắc, vùng cao nguyên Nam Trung bộ về phía Nam, và Biển Đông (IMHEN, 2017).
DHMT là một trong những vùng kinh tế có vai trò quan trọng trong việc phát triển KT-XH của cả nước. Với lợi thế về địa lý, tài nguyên và nhân lực, DHMT với vai trò cửa ngõ phía Đông và là một trong các hành lang kinh tế Bắc - Nam quan trọng của miền Trung và cả nước (Thủ tướng Chính phủ, 2008), DHMT đã đóng góp nhiều thành tựu đáng kể cho sự phát triển của Việt Nam trong những năm qua.
Là khu vực có địa hình thấp, dân số đông, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và du lịch, bên cạnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng DHMT của Việt Nam cũng là một trong những vùng dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Từ những năm 70 của Thế kỷ XX đến nay, số liệu thống kê cho thấy, vùng DHMT đã trải qua bốn thập kỷ chịu ảnh hưởng nặng nề từ bão, lũ lụt và các tác động xấu khác, gây nguy hiểm đến cuộc sống con người và ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển. KT-XH của bản thân vùng nói riêng và cả nước nói chung. Số liệu thống kê cũng cho thấy, hệ quả của BĐKH như vấn đề tăng nhiệt độ, giảm lượng mưa, xâm nhập mặn, sạt lở bờ biển, thiếu nước ngọt, thiên tai ở vùng ngày càng tăng về mức độ và tần suất ngày càng gia tăng về cường độ và tần suất xuất hiện, điều này đã và đang gây ra nhiều thách thức cho sự phát triển bền vững của vùng (IMHEN, 2017).
Để đối phó và thích ứng với những ảnh hưởng xấu của BĐKH gây ra, cần thiết và quan trọng phải xây dựng và thực hiện các chính sách về BĐKH tại vùng DHMT Việt Nam. Các chính sách BĐKH sẽ không chỉ giảm thiểu rủi ro và tăng cường khả năng thích ứng của các đối tượng bị ảnh hưởng, mà còn giúp tận dụng các cơ hội để chuyển đổi sang một nền kinh tế carbon, xanh và hiệu quả,… Việc triển khai các chính sách BĐKH là một trong những yếu tố then chốt để vùng BĐKH có thể vượt qua những thách thức do BĐKH gây ra và tiến tới một tương lai xanh và bền vững.
Một số chính sách về biến đổi khí hậu
Chính sách biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Trong những năm qua, công tác ứng phó với BĐKH tại Việt Nam luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước trong ban hành chủ trương để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động ứng phó với BĐKH, thúc đẩy phát triển nền kinh tế carbon thấp, tăng trưởng xanh.
Ở cấp Trung ương, một số chủ trương lớn của tiêu biểu có thể kể đến như: Nghị quyết số 24/NQ-TW năm 2013 của Bộ Chính trị về Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”; Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đưa ra mục tiêu tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15-20% vào năm 2030, 25-30% vào năm 2045.
Hiện nay, Bộ TN&MT đang chủ trì, cùng các bộ/ngành liên quan xây dựng, trình Chính phủ: Kế hoạch quốc gia ứng phó với BĐKH; tổ chức các diễn đàn đối thoại hợp tác triển khai cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26. Ngoài ra, Bộ TN&MT phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) đang xây dựng Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050 trình Chính phủ ban hành. Các bộ, ngành khác trong cả nước cũng đã và đang thực hiện lồng ghép vấn đề BĐKH trong chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển ngành và ban hành Kế hoạch hành động ứng phó BĐKH; Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh; Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH,...
Nhìn chung những năm qua, các bộ ngành, địa phương trong cả nước đã tích cực xây dựng, ban hành nhiều cơ chế và chính sách quan trọng trong ứng phó với BĐKH. Những chính sách này đã bước đầu giúp giảm nhẹ BĐKH và tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của các hệ sinh thái và cộng đồng dân cư, giúp nâng cao năng lực quản lý và điều hành của các cơ quan chức năng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của các bên liên quan trong việc ứng phó với BĐKH. Những chính sách này cũng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xanh, bền vững và công bằng xã hội ở Việt Nam nói chung và ở vùng DHMT nói riêng, đồng thời góp phần vào nỗ lực toàn cầu bảo vệ hệ thống khí hậu Trái đất.
Tuy nhiên, cơ chế chính sách ứng phó BĐKH của Việt Nam còn một số bất cập như: Hệ thống chính sách và quy phạm pháp luật của Việt Nam có sự khác biệt so với quốc tế, điều này gây ra nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng, cập nhật, sửa đổi văn bản và triển khai thực hiện các cam kết quốc tế của nước ta về BĐKH.
Đã có nhiều văn bản pháp luật ở các cấp đề cập đến cơ chế, chính sách thích ứng BĐKH nhưng vẫn đang còn thiếu các văn bản hướng dẫn về cơ chế chia sẻ thông tin, dữ liệu về BĐKH; hướng dẫn cơ chế ưu tiên cho hoạt động thích ứng BĐKH của các ngành; hướng dẫn lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong BĐKH,...
Lồng ghép BĐKH vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được các cấp từ Trung ương tới địa phương quan tâm. Tuy nhiên, việc lồng ghép cụ thể nội dung thích ứng với BĐKH vào các kế hoạch phát triển KT-XH ở các cấp còn nhiều hạn chế và chưa có được những kết quả cụ thể. Hiện nay, các bộ/ngành và địa phương đang thực hiện việc lồng ghép BĐKH (bao gồm thích ứng) vào trong các kế hoạch phát triển, tuy nhiên nội dung lồng ghép có sự hiểu khác nhau và chưa thật sự đầy đủ.
Tính phối hợp liên bộ, liên ngành trong hoạt động thích ứng với BĐKH còn chưa rõ nét. Trong các văn bản kế hoạch, chương trình của quốc gia vai trò, trách nhiệm, sự phối hợp giữa các bộ/ngành và địa phương đã được xác định rõ ràng, nhưng chưa có sự phối hợp giữa các bên liên quan trong việc lập kế hoạch cũng như thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH trên thực tiễn.
Các nội dung trong các văn bản pháp quy hiện hành không đáp ứng hoặc không tương thích đầy đủ với các yêu cầu để thực hiện các mục tiêu liên quan đến ứng phó với BĐKH trong các cam kết quốc tế khiến cho việc tuân thủ các cam kết của Việt Nam trở nên khó khăn hơn. Điều này có thể làm giảm vị thế và vai trò của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với BĐKH và giải quyết các vấn đề liên quan ở cấp khu vực và quốc tế. Trước những yêu cầu mới từ Thỏa thuận Paris và NDC của Việt Nam, cần có những giải pháp mạnh mẽ hơn để hoàn thiện cơ chế chính sách ứng phó BĐKH.
Thực trạng triển khai chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu tại các tỉnh thuộc duyên hải miền trung Việt Nam
Theo hướng dài hạn, các địa phương ở vùng DHMT đang xây dựng và điều chỉnh quy hoạch phát triển KT-XH và chiến lược phát triển của các ngành kinh tế, trong đó đã tích hợp các biện pháp ứng phó với BĐKH. Các địa phương cũng tham khảo kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 để ban hành các kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH. Các kế hoạch nhìn chung đều tuân theo nguyên tắc khoa học, cấu trúc và nội dung theo Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH, bao gồm: Quan điểm, cách tiếp cận, định hướng ưu tiên; mục tiêu của kế hoạch; kịch bản và tác động của BĐKH (nhiệt độ, lượng mưa, hạn hán, nước biển dâng, lũ lụt); thách thức và cơ hội của BĐKH đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ; du lịch, giao thông vận tải, xây dựng; lĩnh vực tài nguyên và môi trường,... Các giải pháp ứng phó với BĐKH, như: tăng cường năng lực, thể chế chính sách; thích ứng với BĐKH ở từng lĩnh vực; giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; các dự án ưu tiên; tổ chức thực hiện. Kế hoạch hành động thích ứng với BĐKH là một công cụ quan trọng, giúp các địa phương chủ động hơn trong việc ứng phó với BĐKH.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc chủ động ứng phó với BĐKH ở các tỉnh DHMT vẫn còn một số hạn chế, đó là: Ý thức chấp hành pháp luật về thích ứng với BĐKH chưa cao; vai trò, trách nhiệm của các cấp, ngành, cộng đồng và doanh nghiệp chưa được phát huy đầy đủ; việc khắc phục tình trạng xâm nhập mặn, phèn hóa, sạt lở bờ sông, bờ biển còn chậm; vai trò của các doanh nghiệp trong việc tham gia ứng phó với BĐKH chưa thực sự tích cực, tự giác; hoạt động chuyển đổi cơ cấu kinh tế vần còn nhiều hạn chế, chưa bền vững, dẫn đến việc chưa thực sự chú trọng đến lợi thế so sánh của từng địa phương, của vùng; khả năng bảo đảm tưới tiêu cho ngành nông nghiệp thấp, tình trạng thoái hóa đất hiện tại và nguy cơ thoái hóa đất còn cao; quan hệ quốc tế trong thích ứng với BĐKH còn bị động,... Từ đó, tạo ra tâm thế chưa thực sự chủ động trong thích ứng với BĐKH, làm cho thiệt hại do BĐKH đối với KT-XH của vùng vẫn còn ở mức cao so với trung bình cả nước.
Một số khuyến nghị để thực hiện chính sách hiệu quả
Trên cơ sở xem xét kịch bản BĐKH và nước biển dâng vùng DHMT, thực trạng BĐKH thời gian vừa qua ở vùng cũng như bài học kinh nghiệm của các quốc gia trong việc ban hành cơ chế chính sách ứng phó BĐKH cấp ngành và địa phương. Theo kinh nghiệm của các nước để ứng phó với BĐKH hiệu quả, DHMT cần có những chính sách đặc thù riêng phù hợp vời điều kiện, nguồn lực của vùng.
Là một bộ phận lãnh thổ quốc gia, do đó chính sách về ứng phó với BĐKH của vùng cần phải tuân thủ theo quy định chung về ứng phó với BĐKH của Việt Nam. Cụ thể cần: Phù hợp với cam kết quốc tế của Việt Nam trong khuôn khổ Công ước khung Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC), Thỏa thuận Paris và các Nghị quyết của Hội nghị các bên (COP).
Ứng phó hiệu quả với BĐKH ở vùng DHMT Việt Nam không chỉ góp phần bảo vệ môi trường và an toàn cho người dân, mà còn tạo ra những lợi ích KT-XH như tăng trưởng kinh tế bền vững, tạo việc làm xanh, nâng cao chất lượng cuộc sống,... Do đó, việc triển khai các chính sách giúp thúc đẩy ứng phó hiệu quả BĐKH là một trong những yếu tố then chốt để vùng DHMT có thể vượt qua những thách thức do BĐKH gây ra và tiến tới một tương lai xanh và bền vững.
NGUYỄN THANH THẢO
Cục Địa chất Việt Nam
Trích: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 13 (Kỳ 1 tháng 7) năm 2023