
Chuyển đổi mạnh mẽ năng lượng, phát triển phát thải thấp
Việt Nam xác định chuyển đổi năng lượng vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức. Một mặt cần chuyển đổi mạnh mẽ năng lượng từ hóa thạch sang năng lượng sạch cho phù hợp với xu thế chung toàn cầu, góp phần bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế để phát triển bền vững. Một mặt phải đảm bảo an ninh năng lượng phục vụ phát triển kinh tế, chuyển đổi nghề nghiệp cho các lao động bị ảnh hưởng; đảm bảo lực lượng lao động Việt Nam được trang bị đầy đủ kỹ năng để tiếp nhận các công nghệ tiên tiến ít phát thải.
Việt Nam đã triển khai nhiều giải pháp giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK); bảo vệ, phát triển các hệ sinh thái tự nhiên, tăng cường khả năng hấp thụ KNK; cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) và cam kết giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Công tác kiểm kê KNK được quan tâm triển khai; quy định về trách nhiệm, lộ trình và kế hoạch giảm phát thải KNK đã được ban hành. Hoạt động giảm phát thải KNK được quy định tại Luật BVMT năm 2020 và Nghị định số 06/2022/NĐ-CP. Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg đã xác định 1.912 cơ sở phát thải lớn phải thực hiện kiểm kê KNK, xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK của doanh nghiệp. NDC với mục tiêu tự thực hiện sẽ giảm 15,8% lượng phát thải KNK vào năm 2030 so với kịch bản thông thường và giảm tới 43,5% nếu có sự hỗ trợ quốc tế hướng tới mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK được các bộ, ngành địa phương tích cực triển khai, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các bộ, ngành cũng đã ban hành và triển khai thực hiện các kế hoạch, đề án, chương trình giảm phát thải KNK, điển hình như chương trình khí sinh học, phát triển giao thông công cộng ở các đô thị, quy định bắt buộc về định mức tiêu hao năng lượng, phát triển nhiên liệu sinh học-xăng E5, các chính sách hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo,... Phát thải KNK trong các hoạt động năng lượng đã giảm 12,9% so với phương án phát triển bình thường. Đã đạt nhiều kết quả trong giảm thiểu, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, tuân thủ cam kết quốc tế. Từ 01/01/2010, Việt Nam đã loại trừ hoàn toàn tiêu thụ các chất CFC, halon và CTC; từ 01/01/2015 loại trừ 500 tấn HCFC-141b nguyên chất và hơn 500 tấn methyl bromide sử dụng cho mục đích ngoài kiểm dịch và khử trùng hàng xuất khẩu. Trong giai đoạn 2018-2023, 1.000 tấn HCFC-22 sử dụng trong lĩnh vực làm lạnh và điều hòa không khí sẽ được loại bỏ, loại trừ hoàn toàn tiêu thụ polyol trộn sẵn HCFC-141b trong lĩnh vực sản xuất xốp cách nhiệt, giúp Việt Nam tuân thủ nghĩa vụ loại trừ 35% mức tiêu thụ cơ sở các chất HCFC từ ngày 01/01/2020.
Các hoạt động hội nhập, hợp tác quốc tế về BĐKH đã được nâng lên một tầm mới. Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia có trách nhiệm, thực chất và hiệu quả các điều ước quốc tế về BĐKH. Từ năm 2013 đến nay, Việt Nam đã tham gia 11 Điều ước, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực BĐKH gồm: Thoả thuận Paris về BĐKH; Bản sửa đổi bổ sung Doha của Nghị định thư Kyoto; Bản sửa đổi, bổ sung Kigali của Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn; Sáng kiến quản lý vòng đời các chất Fluorocarbon; Liên minh tăng cường hiệu quả làm mát; Cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050; Cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu đến năm 2030; Tuyên bố Glasgow của các nhà lãnh đạo về rừng và sử dụng đất; Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; Liên minh hành động thích ứng toàn cầu; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Đan Mạch về chương trình thích ứng và giảm nhẹ BĐKH. Tại COP26, Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, giảm phát thải khí mê-tan 30% vào năm 2030 so với năm 2020, tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch, tham gia Liên minh hành động thích ứng toàn cầu. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả COP26, Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến 2050, Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030, Đóng góp do quốc gia quyết định (NDC) cập nhật năm 2022 gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH; thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP),...
Theo Cục BĐKH, các hoạt động tiết kiệm năng lượng đã được triển khai thực hiện mạnh mẽ ở các ngành GTVT, sản xuất vật liệu xây dựng. Bộ GTVT đã ban hành và triển khai thực hiện dán nhãn năng lượng đối với xe ô tô đến 9 chỗ ngồi, xe máy; quy định quản lý tiêu thụ nhiên liệu và phát thải CO2 đối với tàu bay; hiệu quả năng lượng đối với tàu biển; sử dụng các thiết bị tiết kiệm năng lượng trong các lĩnh vực,... Bộ Xây dựng đã hướng dẫn và triển khai thực hiện giảm phát thải KNK trong xi măng (3 công ty INSEE, Hà Tiên 1, Nghi Sơn đã tận dụng nhiệt thừa; 3 công ty: Lam Thạch, INSEE, Bút Sơn đã sử dụng phế thải công nghiệp để thay thế 20% nhiên liệu than), trong sản xuất gạch (hàng năm sản xuất 4 tỷ viên gạch không nung quy chuẩn, chiếm 20% tổng lượng tiêu thụ gạch xây, giảm được 1,5 triệu tấn CO2. Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đạt mục tiêu đề ra; tỷ lệ tiết kiệm năng lượng giai đoạn 2011-2015 đạt 5,65%, cao hơn tỷ lệ 3,4% của giai đoạn 2006-2010; trong cả hai giai đoạn Chương trình đã giúp tiết kiệm được trên 15 triệu tấn dầu quy đổi (TOE).
Tại Luật BVMT năm 2020, có 3 điều về ứng phó với BĐKH giao Chính phủ quy định chi tiết. Đồng thời, tại Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, lộ trình thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK đến năm 2030 được chia theo 2 giai đoạn: 2021-2025 và 2026-2030. Các Bộ quản lý lĩnh vực thực hiện các biện pháp quản lý để đạt được mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK của quốc gia. Đối với các cơ sở phát thải lớn, trong giai đoạn 2021-2025 chưa bắt buộc giảm phát thải đối với các cơ sở; trong giai đoạn 2026-2030, các cơ sở phát thải lớn phải thực hiện kiểm kê KNK, xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm nhẹ phát thải KNK theo hạn ngạch được phù hợp với mục tiêu giảm nhẹ phát thải KNK; được phép trao đổi, mua bán hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ các bon trên thị trường các bon trong nước.
Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg về danh mục lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK đã xác định danh mục 1.912 cơ sở phát thải lớn phải thực hiện kiểm kê KNK, xây dựng và thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK. Việt Nam đã cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) với mục tiêu giảm 15,8% lượng phát thải KNK vào năm 2030 so với kịch bản thông thường và giảm tới 43,5% nếu có sự hỗ trợ quốc tế; hướng tới mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Kiểm kê KNK quốc gia đã được triển khai cho các năm. Mức giảm phát thải KNK trên đơn vị GDP đã đạt mục tiêu đến năm 2020.
Một số giải pháp giảm nhẹ phát thải ròng bằng “0” theo lộ trình
Đảng và Nhà nước tiếp tục nhấn mạnh chủ trương, chính sách phát triển nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ cần phải chủ động ứng phó hiệu quả với BĐKH, phát triển kinh tế xanh, kinh tế các-bon thấp, giảm nhẹ phát thải KNK; khẳng định tiếp tục thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững, dựa chủ yếu vào KH&CN, chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh CNH-HĐH. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, cải cách doanh nghiệp nhà nước; tinh gọn bộ máy QLNN. Chính phủ kiên định với mục tiêu xây dựng Chính phủ kiến tạo, đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục đầu tư kinh doanh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với BĐKH, thiên tai khắc nghiệt.
Theo lãnh đạo Cục BĐKH, để thực hiện kế hoạch giảm phát thải KNK của các lĩnh vực theo lộ trình đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, trước mắt thực hiện tốt cam kết theo Đóng góp do quốc gia tự quyết định. Thực hiện nghiêm quy định về kiểm kê KNK và giảm phát thải KNK đối với các cơ sở phát thải hằng năm từ 3.000 tấn CO2tđ trở lên, tăng số cơ sở phát thải phải thực hiện kiểm kê KNK theo lộ trình. Khuyến khích các cơ sở phát thải khác, đặc biệt là các cơ sở thuộc khu vực công, thực hiện kiểm kê KNK và giảm phát thải KNK. Xác định tổng hạn ngạch phát thải KNK và tổ chức phân bổ hạn ngạch phát thải KNK cho các lĩnh vực, cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK. Hoàn thiện và vận hành cơ sở dữ liệu trực tuyến về kiểm kê KNK và đo đạc, báo cáo, thẩm định hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK.
Triển khai đồng bộ các giải pháp giảm phát thải KNK trong các lĩnh vực năng lượng, GTVT, xây dựng, nông nghiệp, sử dụng đất và quản lý chất thải; triển khai thực hiện tốt cam kết giảm phát thải khí mê-tan toàn cầu, cam kết quốc tế về bảo vệ tầng ô-dôn; tăng cường hấp thụ KNK từ trồng rừng, cải tạo rừng và quản lý rừng bền vững; triển khai áp dụng các công nghệ mới, tiên tiến về thu giữ, lưu trữ và sử dụng các-bon. Tập trung triển khai Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo lộ trình thực hiện Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn; xây dựng và thực hiện chiến lược làm mát đô thị ở Việt Nam nhằm thực hiện các mục tiêu cam kết.
Thiết lập hệ thống quản lý tín chỉ các-bon; xây dựng, vận hành thị trường các-bon trong nước và mở rộng, kết nối với thị trường các-bon khu vực và thế giới; thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon quốc tế; thiết lập cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước. Xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy giảm phát thải KNK trong sản xuất các sản phẩm xuất khẩu nhằm ứng phó kịp thời với các cơ chế, tiêu chuẩn, kỹ thuật mới hạn chế phát thải và các rào cản kỹ thuật của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
Tiếp tục phổ biến, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành coi thích ứng với BĐKH và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” là cơ hội để phát triển bền vững, ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của mọi cấp, mọi ngành, mọi doanh nghiệp và mọi người dân. Nâng cao nhận thức của toàn xã hội, thúc đẩy nhận thức, hiểu biết đúng và đầy đủ về ứng phó với BĐKH, chuyển đổi năng lượng công bằng. Ứng phó với BĐKH là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng doanh nghiệp đối với xã hội và môi trường; chủ động thực hiện các biện pháp sản xuất kinh doanh phát thải ít các-bon, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, ít chất thải, phát triển kinh tế tuần hoàn. Thực hiện trao quyền và khuyến khích các chủ thể địa phương giữ vai trò chủ đạo; tăng cường trao quyền, bảo đảm quyền sở hữu, tăng cường năng lực, bảo đảm bình đẳng giới để thúc đẩy sự tham gia hiệu quả của cộng đồng trong quản lý tài nguyên, nhất là tài nguyên rừng. Nâng cao quyền lợi và vai trò của các hộ sản xuất nhỏ, cộng đồng địa phương và người dân bản địa. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giới, sự tham gia của thanh thiếu niên trong ứng phó với BĐKH và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.
NGUYỄN HOÀNG
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 10) năm 2023