
Thứ trưởng Lê Minh Ngân phát biểu khai mạc và chỉ đạo tại Hội nghị
Đến dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo các đơn vị quản lý nhà nước trực thuộc Bộ TN&MT cùng lãnh đạo Sở TN&MT ở 28 tỉnh thành ven biển.
Lần đầu tiên tổ chức Hội nghị trực tiếp với 28 tỉnh thành có biển
Hội nghị nhằm mục đích làm việc trực tiếp với các nhà quản lý về biển đảo ở 28 tỉnh thành đang làm công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo cùng trao đổi, thảo luận về kết quả thực hiện công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; đồng thời đưa ra những khó khăn bất cập trong quản lý, chính sách pháp luật; cơ chế phối hợp giữa Cục Biển và Hải đảo Việt Nam với các Sở TN&MT 28 địa phương có biển hướng đến phát huy hiệu lực, hiệu quả về quản lý tại địa phương.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Minh Ngân đánh giá cao những kết quả đạt được và sự nỗ lực, cố gắng của 28 tỉnh, thành phố có biển trong thời gian qua. Sự phối hợp và tham gia tích cực của các cơ quan Trung ương và các địa phương tại Hội nghị này sẽ góp phần xây dựng và triển khai hiệu quả công tác quản lý nhà nước tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo để tăng cường phát triển kinh tế biển bền vững, bảo vệ sinh kế của người dân.
Thứ trưởng Lê Minh Ngân cho rằng, trước những tiềm năng, lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý của biển, đảo, thực trạng, nhu cầu khai thác, sử dụng tài nguyên, không gian biển và các vấn đề về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, cần thiết phải có sự chung tay quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Trong khuôn khổ Hội nghị, Thứ trưởng Lê Minh Ngân đã đề nghị các đơn vị thuộc Bộ, đặc biệt là Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Sở Tài nguyên và Môi trường của 28 tỉnh, thành phố có biển trao đổi, thảo luận tập trung vào một số nội dung như: (1) Giải pháp triển khai hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quản lý tài nguyên biển đảo; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính; quản lý rác thải nhựa đại dương; nâng cao số lượng các-bon thông qua bảo tồn, quản lý bền vững tài nguyên, hệ sinh thái biển và hải đảo; (2) Các địa phương cần giải quyết các chồng lấn để bố trí, sắp xếp khoanh vùng định hướng phát triển các vùng dựa trên lợi thế với điều kiện tự nhiên địa phương, hài hoà giữa bảo tồn và phát triển; tận dụng tối đa lợi thế để phát triển các ngành du lịch và dịch vụ biển để địa phương trở thành điểm đến hấp dẫn của cả nước; quan tâm, thúc đẩy đầu tư khai thác năng lượng tái tạo và các dạng năng lượng khác; (3) Các địa phương cần nghiên cứu triển khai thực hiện Quy hoạch không gian biển; rà soát, bổ sung Quy hoạch tỉnh; đưa nội dung vào Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tỉnh, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, dự án để phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh có biển, phát triển kinh tế biển. Trong đó, cần xác định các nhiệm vụ ưu tiên, đột phá, phù hợp với tiềm năng, nguồn lực của tỉnh; chú trọng xây dựng hạ tầng kết nối đất liền ra biển, kết nối vùng; (5) Chính quyền các địa phương cần tăng cường kiểm soát việc thu gom, vận chuyển, xử lý rác thải, rác thải nhựa ven biển và trên các đảo; kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải trực tiếp gây ô nhiễm, suy thoái môi trường trên biển, vùng biển ven bờ; đặc biệt là hoạt động nhận chìm, xả nước thải vào môi trường biển,… giám sát chặt các khu đô thị, khu du lịch, khu công nghiệp, khu chế xuất, cơ sở nuôi trồng, chế biến thủy sản, hoạt động thương mại, dịch vụ dọc theo bờ biển, trên các đảo; Mặt khác, đầu tư, xây dựng hệ thống quan trắc, đánh giá phạm vi, mức độ tác động của các nguồn gây ô nhiễm biển từ đất liền, nhất là từ các lưu vực sông. Tăng cường kiểm tra, xử lý đối với các đối tượng vi phạm về khai thác tài nguyên, môi trường biển; (6) Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao nhận thức về ý thức khai thác bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo,… Trên cơ sở đó, đề xuất những chính sách, pháp luật để nâng cao hiệu quả, hoàn thiện công tác quản lý nhà nước của lĩnh vực này trong thời gian tới.
Ngoài ra, Thứ trưởng Lê Minh Ngân yêu cầu, các đại biểu chia sẻ kinh nghiệm hay, cách làm tốt trong công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo tại Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cũng như tại các địa phương điển hình. Trên cơ sở đó có hình thức khen thưởng, động viên kịp thời.
Một số đột phá về hoàn thiện thể chế
Thực hiện quy định của Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và tư tưởng của Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cùng với Sở TN&MT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đã triển khai thực hiện bằng các chương trình, dự án, nhiệm vụ vụ thể. Có thể thấy rằng chính sách, pháp luật của Đảng, nhà nước ngày càng được quan tâm chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo ở nước ta.
Toàn cảnh hội nghị
Một trong những điểm nổi bật trong kết quả đạt được đã được báo cáo tại Hội nghị, đó là công tác hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển. Chính phủ ban hành Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 03/4/2023 phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chiến lược đặt ra mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là tài nguyên biển và hải đảo được khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả, công bằng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế; ô nhiễm môi trường biển đƣợc ngăn ngừa, kiểm soát, giảm thiểu đáng kể; đa dạng sinh học biển, ven biển và hải đảo được bảo vệ, duy trì và phục hồi; các giá trị di sản thiên nhiên, di sản văn hóa biển được bảo tồn, phát huy; tác động của thiên tai được hạn chế thấp nhất có thể, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển. Đây là các công cụ quan trọng phục vụ công tác quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, phát triển bền vững kinh tế biển.
Để quản lý hiệu quả các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo, Bộ TN&MT phối hợp với các cơ quan liên quan, các địa phương có biển tổ chức rà soát các văn bản pháp luật, chính sách khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, các công cụ quản lý. Bộ TN&MT đang trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định lấn biển; đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 40/2016/NĐ-CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Nghị định số 11/2021/NĐ-CP quy định việc giao khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, bất cập, tạo cơ sở pháp lý phù hợp với thực tiễn để vận hành hiệu quả các hoạt động phát triển kinh tế biển.
Quy hoạch không gian biển quốc gia là công cụ pháp lý hết sức quan trọng trong việc phát triển bền vững kinh tế biển. Lập Quy hoạch không gian biển quốc gia là nhiệm vụ rất lớn, phức tạp, đa ngành, đa lĩnh vực, lần đầu tiên được thực hiện. Quy hoạch tổng thể quốc gia, đòi hỏi rất nhiều thông tin dữ liệu đầu vào như: Số liệu về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, thiên nhiên; số liệu quy hoạch của các ngành kinh tế biển; nhu cầu sử dụng biển,…trong khi hiện nay, số liệu điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển còn rất thiếu. Đứng trước khó khăn, thách thức đó, Bộ TN&MT đã quyết liệt tập trung nguồn lực để lập Quy hoạch không gian biển quốc gia để Chính phủ trình Quốc hội thông qua tháng 6/2024.
Nhận diện và chỉ rõ bất cập trong quản lý kiểm soát ô nhiễm
Đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, đại diện phòng Quản lý Điều tra biển cho biết: Khoản 2 Điều 50 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quy định “Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; công khai kết quả đánh giá trên trang thông tin điện tử của cơ quan mình”. Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể về việc thực hiện hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo đối với các bộ và cơ quan ngang bộ khác (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp…) nên việc thực hiện đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo chủ yếu chỉ được thực hiện bởi Bộ TN&MT và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Một số nội dung thuộc phạm vi đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển đưa vào tiêu chí đánh giá tại địa phương hàng năm đều phải thực hiện sẽ khó khăn cho địa phƣơng do liên quan đến nguồn lực còn khó khăn (về con người, về kinh phí thực hiện), một số hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo chưa được quy định, hướng dẫn cụ thể (Điều tra, thống kê, phân loại, đánh giá các nguồn thải từ đất liền, từ các hoạt động trên biển và hải đảo; tình trạng ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; xây dựng kế hoạch phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường, các hệ sinh thái biển và hải đảo, kế hoạch ứng phó, khắc phục sự cố môi trường biển...).
Điểm b khoản 1 Điều 11 Thông tư số 27/2016/TT-BTNMT quy định một trong những thành phần của hồ sơ đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo là “Các tài liệu chứng minh kết quả đạt được đối với các nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo, tiêu chí, tiêu chí thành phần”. Tuy nhiên, không quy định cụ thể, rõ ràng về yêu cầu tài liệu chứng minh phải bao gồm hình thức, nội dung gì nên khó thực hiện.
Điểm h khoản 4 Điều 5 Thông tư số 27/2016/TT-BTNMT quy định về “Tiêu chí 4.8: tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động hệ thống quan trắc tự động việc xả thải trên biển và hải đảo của các đối tượng theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24 tháng 4 năm 2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải và phế liệu”. Tuy nhiên, Luật BVMT 2014 đã được thay thế bởi Luật BVMT 2020 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP đã được bãi bỏ, do đó không có căn cứ để thực hiện tiêu chí trên.
Phụ lục 01 Thông tư số 27/2016/TT-BTNMT quy định về Bộ chỉ số, nội dung, tiêu chí, tiêu chí thành phần đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo và Phụ lục 02 Thông tư số 27/2016/TTBTNMT quy định về cách tính điểm của tiêu chí, tiêu chí thành phần có một số nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, không phù hợp với thực tiễn với các hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo hiện tại đang được triển khai tại các địa phương.
Bên cạnh đó, trong hoạt động kiểm soát ô nhiễm; ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên biển, phòng Quản lý Điều tra biển đã cho biết: Điều 51 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quy định “Nội dung báo cáo, kỳ lập báo cáo, thẩm quyền và trách nhiệm lập báo cáo thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường”. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực tế các năm vừa qua cho thấy, Báo cáo hiện trạng môi trường và báo cáo hiện trạng môi trường biển có những sự khác biệt cơ bản về phạm vi, mục tiêu, và nội dung. Do đó, việc áp dụng các quy định về nội dung báo cáo cũng như kỹ thuật lập báo cáo còn chưa phù hợp và sát với thực tiễn. Đề xuất trong giai đoạn tới, cần có những quy định cụ thể hơn cho nội dung cũng như kỹ thuật lập Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia 5 năm một lần và báo cáo chuyên đề hằng năm.
Trong việc thiết lập và quản lý hành lang bảo vệ bờ biển, chậm trễ trong phê duyệt và triển khai: khoản 2 Điều 79 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo quy định “Trong thời hạn 18 tháng kể từ thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển có trách nhiệm thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển thuộc phạm vi quản lý”. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương việc hoàn thành phê duyệt danh mục và ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển chưa đáp ứng được quy định nêu trên. Đến nay, chỉ có một số ít tỉnh thành đã hoàn thành việc cắm mốc giới hành lang bảo vệ bờ biển.
Bên cạnh đó, trong công tác quản lý còn thiếu cơ chế phối hợp, theo đó Khoản 3 Điều 34 và khoản 1 Điều 38 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP quy định UBND tỉnh có biển cần lấy ý kiến của Bộ TN&MT về dự thảo Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển và dự thảo Ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển trước khi phê duyệt. Tuy nhiên, việc thiếu cơ chế phối hợp giữa các cơ qua trung ương và địa phƣơng dẫn đến việc thiếu thông tin đầy đủ để nhận xét và góp ý cho các dự án thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển tại các địa phương phù hợp với thực tiễn. Ngoài ra, quy định kỹ thuật phức tạp, các quy định kỹ thuật về thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển (Thông tư số 29/2016/TT-BTNMT ngày 12/10/2016 của Bộ TN&MT) còn phức tạp, gây khó khăn cho người đọc và góp ý.
Cũng theo phòng Quản lý Điều tra biển, hiện vẫn còn những vướng mắc, bất cập trong hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Cụ thể: Nghị định số 37/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của Việt Nam đã quy định chế tài xử phạt cho nội dung giao và sử dụng khu vực biển, nhận chìm ở biển. Nghị định ra đời đã tạo hành lang pháp lý cho việc thực thi pháp luật đối với các hành vi vi phạm về giao và sử dụng khu vực biển, nhận chìm. Tuy nhiên, trong Nghị định này không quy định thẩm quyền lập biên bản xử lý vi phạm hành chính của cán bộ, công chức đang thi hành công vụ và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Cục trưởng. Điều này dẫn đến công tác kiểm tra về lĩnh vực tài nguyên, môi trƣờng biển và hải đảo của Cục Biển và Hải đảo Việt Nam chưa thực sự chủ động, phát huy hiệu quả.
Bên cạnh đó, Thông tư số 105/2022/TT-BQP ngày 29/12/2022 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng có một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc áp dụng thời điểm tính tiền sử dụng khu vực biển đối với tổ chức, cá nhân đã sử dụng khu vực biển mà chưa được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao khu vực biển. Quy định buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được khi không có quyết định giao khu vực biển chưa thực sự phù hợp, trùng với cách tính với hành vi trốn nộp gây khó khăn, hiểu không rõ trong quá trình thực hiện.
Cũng tại Hội nghị, Sở TN&MT các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Thanh Hóa, Đà Nẵng; Bà Rịa - Vũng Tàu, Trà Vinh, Cà Mau, Kiên Giang đã chia sẻ về thực tế triển khai chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo tại địa phương mình. Thông qua đó, các nhà quản lý biển tại địa phương nhận thấy được những cách làm hay, kinh nghiệm tốt để tiếp thu, vận dụng.
Cần thay đổi phương thức quản lý
Thông qua các ý kiến trao đổi, phát biểu tại Hội nghị và chia sẻ kinh nghiệm từ Lãnh đạo Sở TN&MT một số tỉnh, thành phố có biển, thay mặt Ban điều hành Hội nghị, Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn cảm ơn và xin tiếp thu đầy đủ ý kiến chỉ đạo của đồng chí Thứ trưởng Lê Minh Ngân trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị. Trên cơ sở đó, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cùng các địa phương có biển sẽ cụ thể hóa trong các chương trình công tác của cơ quan đơn vị mình.
Ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam phát biểu kết thúc Hội nghị
Qua các báo cáo, ý kiến trao đổi và theo dõi hoạt động của các địa phương, Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn cho rằng, nhiều địa phương đã tích cực, chủ động giải quyết các vấn đề về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những những kết quả đạt được trong công tác quản lý tài nguyên, môi trường biển và đảo, chúng đang đối mặt với hàng loạt các vấn đề phải quan tâm giải quyết có thể kể đến như sau: Vấn đề về suy thoái cảnh quan, hệ sinh thái biển và ven biển; Tình hình ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường biển biển ven bờ có dấu hiệu gia tăng; Gia tăng các tác động tiêu cực do thiên tai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng, các hiện tượng khí hậu cực đoan; Mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng tài nguyên, không gian biển giữa các ngành, các bên có liên quan; Nguồn lực bao gồm nguồn nhân lực và tài chính đầu tư cho lĩnh vực biển, hải đảo từ trung ương đến địa phương còn hạn chế.
Để giải quyết các vấn đề về công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo đã đặt ra và thực thi các quy định chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này đạt hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới, với tư duy quản lý mang tính đột phá, thay đổi phương thức quản lý chuyển từ bị động sang chủ động, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Cục trưởng Nguyễn Đức Toàn đề nghị các đơn vị trực thuộc Cục Biển và Hải đảo Việt Nam và Sở TN&MT các tỉnh, thành phố có biển tập trung triển khai một số các nhiệm vụ:
Một là, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam tiếp thu và thực hiện đầy đủ các ý kiến chỉ đạo trong bài phát biểu của Thứ trưởng Lê Minh Ngân. Trên cơ sở đó, cùng các địa phương sẽ triển khai thành các chương trình hành động cụ thể, gắn với các nội dung cụ thể, thời gian hoàn thành.
Hai là, tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, hướng dẫn kỹ thuật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo làm cơ sở cho các tỉnh triển khai thực hiện. Trong đó, tập trung đánh giá, tổng kết thi hành Luật tài nguyên, môi trường biển và hải đảo và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trên cơ sở đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới.
Ba là, tiếp tục phối hợp triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển kinh tế biển; Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo; Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch thực hiện các Quy hoạch.
Bốn là, tăng cường phối hợp, trao đổi thông tin giữa Cục Biển và Hải đảo Việt Nam và Sở TN&MT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển; phối hợp trong việc đóng góp ý kiến để xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; phối hợp khảo sát, nắm bắt tình hình các hoạt động trên biển và ven bờ; phối hợp trong các hoạt động đánh giá hiện trạng môi trường; phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường biển; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; công tác tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn và tham gia khắc phục sự cố môi trường biển.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm kết thúc Hội nghị
Có thể nói, đây là Hội nghị đầu tiên của Cục Biển và Hải đảo Việt Nam về việc giao ban với các địa phương có biển. Tại Hội nghị này, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam cùng các địa phương thảo luận, xác định những nội dung thực hiện tiếp theo và các mục tiêu, chỉ tiêu cần thực hiện. Theo đó, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam dự kiến tổ chức Hội nghị lần thứ hai tại một địa phương có biển để đánh giá những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của Hội nghị lần này đã đề ra.
Minh Huyền