Ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu đã chuyển sang một giai đoạn mới, đòi hỏi tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam ngoài việc chuyển sang nền kinh tế phát thải thấp, cần nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo và thích ứng với biến đổi khí hậu, đáp ứng công tác phục vụ phòng chống thiên tai, giảm thiểu thiệt hại.

Hiện trạng năng lực hệ thống dự báo và công tác cảnh báo thiên tai
Thời những năm qua, Ngành Khí tượng thuỷ văn Việt Nam đã nỗ lực thay đổi công tác dự báo, phát triển theo hướng hiện đại hóa, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ hiện đại, tự động nhằm tạo ra các sản phẩm đa dạng, với chất lượng tốt hơn, phục vụ công tác phòng chống thiên tai, phát triển KT-XH. Theo đó, hệ thống dự báo đã có nhiều thay đổi, từ các dự báo thủ công, kinh nghiệm đã được chuyển đổi sang hệ thống dự báo số độ phân giải cao. Ngành đã tự vận hành được hệ thống mô hình dự báo thời tiết số có độ phân giải đến 3 km, tiến tới sẽ đạt mức 1-2 km, cho phép tích hợp các số liệu của Việt Nam như radar, đo đạc tự động giúp nâng cao được khả năng chất lượng dự báo, qua đó nâng cao năng lực cảnh báo các hệ quả liên quan gồm ngập lụt, lũ, lũ quét và sạt lở đất. Bên cạnh đó, Ngành KTTV đã triển khai hệ thống trực quan hóa, biên tập dữ liệu dự báo khí tượng (SmartMet) từ năm 2019. Hệ thống SmartMet tạo ra bộ số liệu dự báo thống nhất được chia sẻ giữa các đơn vị dự báo từ trung ương đến địa phương và dễ dàng chuyển sang các dạng bản tin, các ứng dụng điện thoại, mạng xã hội một cách nhanh nhất. Nhiều công nghệ dự báo hiện đại được tiếp nhận từ nước ngoài như hệ thống cảnh báo lũ quét của Hoa Kỳ, khu vực Trung Mỹ, châu Âu, Israel, Nhật Bản,...
Với những kết quả đạt được, hiện nay, độ tin cậy của bản tin dự báo, cảnh báo bão, lũ của Việt Nam đã tiệm cận với trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, dự báo một số loại hình thiên tai đạt độ tin cậy tới 70-90%. Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã chọn Tổng cục KTTV Việt Nam là Trung tâm dự báo hỗ trợ về các loại hình thời tiết nguy hiểm và Trung tâm hỗ trợ cảnh báo lũ quét cho khu vực ASEAN.
Các dự báo không còn dừng ở thông tin về KTTV thuần túy mà dần dịch chuyển sang dự dựa trên tác động, cung cấp thông tin thời tiết sẽ gây ra tác động gì đối với người dân, tới các đối tượng chịu rủi ro trước thời tiết, thiên tai như nông nghiệp, giao thông, du lịch, nuôi trồng thủy sản,.. và ở mức cao hơn nữa là dự báo tác động, cung cấp các ngưỡng thiên tai nào đó (ví dụ mưa 50 mm/24g, gió cấp 6-7) ảnh hưởng tới các đối tượng dễ bị tổn thương khác nhau (ví dụ ảnh hưởng tới bao nhiêu người già, trẻ nhỏ, bao nhiêu tàu thuyền trên biển, bao nhiêu diện tích lúa đang chuẩn bị thu hoạch,...), đây là cơ sở để đưa ra các khuyến cáo, các hành động ứng phó quan trọng để bảo vệ cuộc sống và sinh kế của người dân.
Với quan điểm thông tin, dữ liệu KTTV là đầu vào quan trọng của các ngành, lĩnh vực KT-XH, phục vụ cuộc sống hằng ngày của người dân và góp phần đảm bảo QP-AN quốc gia, Ngành đang hướng tới các sản phẩm dự báo, cảnh báo sớm hơn, dài hạn hơn nhằm đáp ứng nhu cầu của các ngành nghề. Sự chủ động, đổi mới trong công tác dự báo đã đem lại đóng góp thực tế đối với xã hội như: Năm 2019, trong dự báo hạn mặn, nhờ dự báo sớm nên mặc dù hạn hán và xâm nhập mặn xảy ra với quy mô lớn và mức độ khốc liệt nghiêm trọng nhất trong lịch sử tại ĐBSCL (thời gian xâm nhập mặn kéo dài gấp từ 2 - 2,5 lần, phạm vi ảnh hưởng rộng hơn so với năm 2016) tuy nhiên mức độ thiệt hại đến sản xuất, dân sinh được giảm thiểu đặc biệt là thiệt hại về sản xuất nông nghiệp chỉ bằng khoảng 10% so với năm 2016. Năm 2020, đã cảnh báo, dự báo sát, sớm, kịp thời về cơn bão số 9 có tên quốc tế là Molave, một trong những cơn bão mạnh nhất khi vào biển Đông và trên đất liền trong suốt 20 năm qua, giúp Chính phủ và Ban Chỉ đạo Quốc gia về PCTT, chính quyền địa phương các cấp, người dân, doanh nghiệp chủ động PCTT hiệu quả, góp phần giảm nhẹ thiệt hại về người và tài sản của nhân dân.
Hiện nay, toàn bộ dữ liệu KTTV trong và ngoài nước được tích hợp, tổ chức, lưu trữ, khai thác và cung cấp tại Trung tâm xử lý dữ liệu tập trung (CDH), các công tác nghiệp vụ dự báo, cảnh báo KTTV đều sử dụng dữ liệu tại Trung tâm Thông tin và Dữ liệu KTTV, dữ liệu được chia sẻ đến các đơn vị phục vụ công tác điều hành, chỉ đạo về phòng chống thiên tai như: Văn phòng thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia về PCTT. Triển khai trong nghiệp vụ hệ thống siêu máy tính CrayXC40 cho phép chi tiết hóa và nâng cao được khả năng chất lượng dự báo mưa lớn, qua đó tiếp tục nâng cao năng lực cảnh báo các hệ quả liên quan gồm: Ngập lụt, lũ, lũ quét và sạt lở đất ở Việt Nam.
Một số tồn tại, khó khăn
Biến đổi khí hậu ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, với nhiều tác động tiêu cực thậm chí còn diễn ra nhanh hơn nhiều so với các dự báo. Tại Việt Nam, BĐKH đã và đang có tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực phát triển KT-XH, các khu vực, vùng miền. Các hiện tượng thời tiết cực đoan cũng gia tăng trong những năm gần đây. Hoạt động, ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới trong những năm gần đây đều có những diễn biến rất bất thường.
Việt Nam có tổng lượng nguồn nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiếm khoảng hơn 60%. Việc nguồn nước các lưu vực sông lớn phụ thuộc vào nguồn nước từ thượng lưu, vùng lãnh thổ quốc gia khác nếu không được giám sát, quản lý theo dõi sẽ dẫn tới bị động và phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn phức tạp như thiên tai lũ, hạn, thiếu nước ở khu vực thượng nguồn.
Mạng lưới quan trắc KTTV nhìn chung vẫn còn thưa, đặc biệt trên biển. Trên biển mật độ trạm quá thưa, cả khu vực biển Đông chỉ có khoảng 10 trạm khí tượng trên đảo, thiết bị đo phục vụ cho quan trắc chủ yếu vẫn là thủ công, thiết bị quan trắc tự động chưa được trang bị nhiều, do đó chưa đáp ứng yêu cầu của công tác dự báo đòi hỏi ngày càng cao và chính xác. Trong điều kiện thiết bị tự động đặt ngoài trời, hoạt động liên tục 24/24h trong mọi điều kiện thời tiết, việc duy trì hoạt động thường xuyên của các trạm, đặc biệt là kịp thời khắc phục, sửa chữa, thay thế linh kiện khi hư hỏng trong bối cảnh cơ sở vật chất và trang thiết bị chuyên môn còn thiếu, đã cũ, thời gian sử dụng dài, do đó hay bị hư hỏng và xuống cấp, rất khó khăn trong công tác đảm bảo duy trì hoạt động ổn định, liên tục và chính xác cho các chuyên môn nghiệp vụ.
Dự báo định lượng mưa, mưa do bão còn hạn chế cả về độ chính xác và thời gian dự báo, đặc biệt là dự báo chi tiết lượng mưa theo giờ, mưa cực đoan cục bộ thời đoạn ngắn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đây cũng là khó khăn chung của các cơ quan dự báo trên thế giới và cần được đầu tư nghiên cứu để cải tiến trong những năm tới. Cảnh báo lũ quét, sạt lở đất còn nhiều khó khăn, Trung tâm hỗ trợ cảnh báo lũ quét khu vực Đông Nam Á mới đi vào hoạt động nên gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý vận hành.
Định hướng và một số nhiệm vụ trọng tâm
Để phục vụ công tác PCTT, giảm thiểu thiệt hại và phát triển KT-XH, từ nay đến cuối năm, nhất là các tháng mùa mưa bão, Ngành KTTV tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm: Theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, thuỷ văn, hải văn trên phạm vi cả nước; cảnh báo, dự báo kịp thời các hiện tượng thời tiết, thuỷ văn, hải văn nguy hiểm như bão, ATNĐ, mưa lớn, lũ lớn, lũ quét, triều cường, sóng lớn,... phục vụ hiệu quả công tác PCTT. Tăng cường ứng dụng công nghệ và công cụ mới nhằm chi tiết hóa và truyền tải các thông tin dự báo, hoàn thiện công cụ, hệ thống dự báo, tăng cường chất lượng dự báo KTTV nói chung, thiên tai KTTV nói riêng và đặc biệt là dự báo mưa định lượng, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện: Chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn; Chiến lược quốc gia PCTT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch PCTT quốc gia đến năm 2025; Chương trình trình tổng thể PCTT quốc gia. Duy trì và phát triển các loại thông tin và các hình thức truyền tải bản tin dự báo, cảnh báo KTTV mới tới người dùng như ứng dụng trên điện thoại di động, Facebook, Zalo, Youtube,...
Dự báo, thời gian tới một số hiện tượng thời tiết nguy hiểm sẽ ảnh hưởng tới nước ta: Hiện tượng El Nino (pha nóng) có khả năng xuất hiện vào nửa cuối mùa hè 2023 với xác suất khoảng 80-85% và có thể kéo dài sang năm 2024. Nền nhiệt độ các tháng trong năm 2023 dự báo có xu hướng cao hơn TBNN và nắng nóng có khả năng xảy ra nhiều hơn và gay gắt hơn so với trung bình, số ngày nắng nóng trong năm 2023 xuất hiện nhiều hơn so với năm 2022. Trong điều kiện El Nino, ở hầu hết các vùng trong cả nước, nhiệt độ trung bình các tháng có xu thế cao hơn bình thường; khả năng xuất hiện nhiều kỷ lục về nhiệt độ cao nhất tuyệt đối; gây thiếu hụt lượng mưa ở đa phần diện tích cả nước với mức phổ biến từ 25-50%; lượng mưa có xu thế giảm nhưng có thể xuất hiện những kỷ lục về lượng mưa lớn nhất trong 24h; hoạt động của bão/ATNĐ có thể không nhiều nhưng có tính chất bất thường hơn, tập trung nhiều vào giữa mùa.
Dự báo năm 2023, số lượng bão và ATNĐ hoạt động trên khu vực Biển Đông, cũng như ảnh hưởng đến đất liền có khả năng thấp hơn với TBNN (TBNN khoảng 11-13 cơn trên Biển Đông và 5-7 cơn ảnh hưởng đến đất liền). Bão hoạt động nhiều hơn trên Biển Đông từ tháng 8-10/2023 và giảm dần từ tháng 11/2023.
Từ tháng 6 đến tháng 8/2023 nắng nóng tiếp tục có khả năng xảy ra tại khu vực Bắc Bộ và Trung Bộ, số ngày nắng nóng năm nay xảy ra nhiều hơn TBNN và gay gắt hơn so với cùng thời kỳ năm 2022. Sau đó từ tháng 9/2023 xu hướng suy giảm hơn.
Đỉnh lũ trên các sông ở Bắc Bộ phổ biến ở mức báo động (BĐ)1-BĐ2, tương đương năm 2022, thấp hơn TBNN, riêng các sông suối nhỏ từ BĐ2-BĐ3, các đợt lũ chủ yếu tập trung trong các tháng 7-9/2023. Nguy cơ xảy ra ngập lụt tại các đô thị, thành phố lớn do ảnh hưởng của mưa lớn cục bộ.
Mùa lũ trên các sông ở khu vực Tây Nguyên có khả năng đến sớm hơn TBNN; các sông ở khu vực Trung Bộ xuất hiện tương đương TBNN. Các đợt lỹ chủ yếu tập trung vào tháng 9-11/2023. Đỉnh lũ năm 2023, tại hạ lưu các sông chính từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh, Bình Thuận ở mức BĐ1-BĐ2, có sông trên BĐ2 (ở mức thấp hơn TBNN và năm 2022); các sông từ Quảng Bình đến Ninh Thuận và khu vực Tây Nguyên ở mức BĐ2-BĐ3, có sông trên BĐ3 (ở mức xấp xỉ TBNN và năm 2022).
Trên các sông suối nhỏ, vùng thượng lưu các sông khả năng xuất hiện lũ lớn. Lũ quét, sạt lở đất nguy cơ cao xuất hiện tại các tỉnh khu vực trung du, miền núi.
Khu vực Nam Bộ, mùa lũ 2023, trên sông Mê Công xuất hiện tương đương TBNN. Đỉnh lũ năm 2023 ở đầu nguồn sông Cửu Long ở mức BĐ1 và dưới BĐ1, tương đương đỉnh lũ TBNN (2012-2022); đỉnh lũ tại các trạm hạ lưu sông Cửu Long ở mức BĐ2-BĐ3 và trên BĐ3.
Triều cường, sóng lớn, dự báo tại ven biển Đông Nam Bộ trong tháng 10-12 năm 2023 có 5 đợt triều cường cao (mực nước tại trạm Vũng Tàu vượt ngưỡng 4,0 m), vào các khoảng thời gian: Từ 01-03/10/2023, 27-30/10/2023; 15-18/11/2023; 27-30/11/2023 và 14-17/12/2023. Nguy cơ cao ngập úng ở những vùng trũng, thấp tại ven biển, cửa sông, khu vực ngoài đê bao tại các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ nhất là trong trường hợp trùng với kỳ gió chướng hoạt động mạnh tại khu vực. Tại ven biển Trung Bộ, nguy sạt lở đê biển, ngập úng ở các khu vực trũng, thấp ven biển, cửa sông vào các tháng cuối năm (từ tháng 9-12) do triều cường kết hợp với nước dâng và sóng lớn trong bão, ATNĐ và gió mùa mạnh ảnh hưởng tại khu vực.
Dự báo khả năng thiếu hụt nguồn nước ở hầu hết các khu vực trong giai đoạn từ nay đến cuối năm 2023. Đặc biệt, đối với các hồ chứa lớn trên bậc thang thủy điện sông Đà do nguồn nước trong và ngoài lãnh thổ có xu hướng thấp hơn TBNN dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng đến cấp nước hạ du và an ninh năng lượng. Khả năng xảy ra hạn hán, xâm nhập mặn trong thời kỳ mùa kiệt năm 2023 tại khu vực Trung Bộ, trong giai đoạn từ nay đến tháng 8 năm 2023. Đề phòng nguy cơ xảy ra hạn hán, xâm nhập mặn ở mức khốc liệt trong mùa kiệt 2023-2024 do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino.
PGS. TS. MAI VĂN KHIÊM
Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2023