Đẩy mạnh liên kết "6 nhà" để thúc đẩy phát triển kinh tế vùng Trung du và miền núi phía Bắc

Thứ bảy, 6/12/2025, 07:05 (GMT+7)
logo Ngày 5/12/2025, tại tỉnh Phú Thọ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Phú Thọ tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững vùng trung du và miền núi phía Bắc trong kỷ nguyên mới”.

Dự và chủ trì Hội thảo có Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến; ông Đinh Công Sứ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ.

Dự Hội thảo còn có lãnh đạo các Cục, Vụ, Viện, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang và lãnh đạo sở nông nghiệp một số địa phương như Thái Nguyên, Sơn La, Lào Cai… Hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, hợp tác xã.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, vùng trung du và miền núi phía Bắc là khu vực có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của đất nước, là vùng phên dậu của tổ quốc.

f07ac166163a9964c02b_1764934878.webp
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến phát biểu tại Hội thảo

Với sự đa dạng về đất đai, địa lý mang lại tiềm năng to lớn trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất hữu cơ, sản xuất tuần hoàn với các sản phẩm mang sắc thái bản địa gắn với du lịch, thời gian qua sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng của vùng miền núi phía Bắc đã góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nâng cao đáng kể đời sống của người dân và bảo tồn, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, kết quả sản xuất nông nghiệp của vùng còn nhỏ lẻ manh mún, hiệu quả thấp, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có về con người và điều kiện tự nhiên mang tính đặc thù của vùng.

Trước ngưỡng cửa của "kỷ nguyên mới", kỷ nguyên của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hóa sâu rộng, và sự ra đời của Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là cơ hội vàng cho ngành nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng để vùng miền núi phía Bắc cất cánh, nâng cao năng suất, chất lượng và tăng khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp.

Tại buổi Hội thảo, ông Đinh Công Sứ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ cho biết, trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp của địa phương đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Công tác triển khai các chương trình, đề án trong lĩnh vực trồng trọt tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Với sự da dạng về đất đai, địa lý đã mang lại tiềm năng to lớn trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, đặc biết địa phương đã có các chương trình, mô hình và bổ trí nguồn ngân sách hỗ trợ. Cụ thể, trong 5 năm qua đã xây được nền móng nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn; các chương trình, mô hình sản xuất đạt được những kết quả bước đầu tích cực; tổ chức sản xuất theo quy mô lớn, tăng cường liên kết, hợp tác sản xuất tại các vùng tập chung; gắn với nông nghiệp tuần hoàn đã góp phần cùng cố các vùng sản xuất tập chung nhất là các loại cây trồng thế mạnh của tỉnh, từ đó góp phần xây dựng thương hiệu nông sản địa phương an toàn, thân thiện trong mắt người tiêu dùng. Nhiều sản phẩm đặc thù địa phương đã được chứng nhận OCOP như bưởi đỏ Tân Lạc, bưởi Đoan Hùng, chè xanh Phú Thọ, cam Cao Phong…

3650610251844463000_1764934667.webp
Ông Đinh Công Sứ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ cho rằng, vùng miền núi phía Bắc còn rất nhiều dư địa để phát triển nông nghiệp

Tỉnh Phú Thọ mới sau sáp nhập có tổng diện tích tự nhiên khoảng 9.361 km, dân số trên 4 triệu người. Trong đó, diện tích đất nông nghiệp khoảng 7.767 km², chiếm gần 83% diện tích tự nhiên, với địa hình đa dạng từ đồng bằng, trung du đến miền núi cao, tạo nên nhiều tiểu vùng sinh thái và khí hậu khác nhau. Đây là điều kiện  thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng cây trồng, vật nuôi, từ cây lương thực, rau màu, cây ăn quả đến cây công nghiệp dài ngày.

Tuy nhiên, ông Sứ thẳng thắn nhìn nhận, ngành nông nghiệp Phú Thọ nói riêng và vùng miền núi phía Bắc nói chung vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, vướng mắc, như: Vấn đề cơ chế, chính sách còn một số bất cập; năng lực khoa học công nghệ, nguồn nhân lực vùng này còn yếu; điều kiện địa lý, địa hình, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún; kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế; tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường; yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm, phát triển xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải; sức ép cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt...

“Hội thảo hôm nay do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực giúp các địa phương trong vùng tiếp tục nâng cao hơn nữa về nhận thức và trách nhiệm trong việc thúc đẩy khoa học công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong kỉ nguyên mới”, ông Sứ nhấn mạnh.

Trình bày tại Hội thảo, TS. Nguyễn Như Cường, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ cho biết, vùng miền núi phía Bắc có diện tích tự nhiên 9,12 triệu ha, diện tích đất nông nghiệp 2,135 triệu ha, dân số 11,24 triệu người; diện tích cây ăn quả 21,4% cả nước (xấp xỉ 272 nghìn ha), cây công nghiệp gần 151 nghìn ha, cây lấy dầu 303 nghìn ha, cây gia vị, dược liệu 6 nghìn ha. Với sự đa dạng về đất đai, địa lý mang lại tiềm năng to lớn trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt là sản xuất hữu cơ, sản xuất tuần hoàn với các sản phẩm mang sắc thái bản địa gắn với du lịch.

Một số cây trồng chủ lực như cây chè khoảng 100.000 ha, năng suất 87 tạ/ha; cây chuối khoảng 24 nghìn ha, năng suất trung bình ước 195 tạ/ha; cây nhãn 25,3 nghìn ha, năng suất trung bình ước 70 tạ/ha; cây bưởi 24 nghìn ha, năng suất trung bình ước 147,7 tạ/ha; cây xoài 25 nghìn ha, năng suất trung bình ước 60 tạ/ha; cây cam 18 nghìn ha, năng suất trung bình ước 60 tạ/ha...) và một số cây trồng khác như vải, na, dứa với diện tích khoảng 5.000 – 7.000 ha. Đây là lợi thế để vùng phát triển nông nghiệp.

Tại Hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng, trong kỷ nguyên chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn thì khoa học công nghệ là chìa khóa để phát triển. PGS, TS. Lưu Ngọc Quyến, Viện trưởng Viện Khoa học Nông Lâm nghiệp miền núi phía Bắc cho biết, thời gian qua Viện đã hoàn thành và công bố được 36 giống cây trồng mới các loại, trong đó có 26 giống chè mới, 10 giống cây ăn quả, 2 giống lúa thuần. Có 90 cây công nghiệp đầu dòng (sơn) được công nhận, 22 ha vườn cây đầu dòng giống chè, 2,4 ha vườn cây đầu dòng giống cây ăn quả các loại (mơ, vải, cây ăn qủa ôn đới, hồng,…) đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện nhân giống. Trong số các giống cây trồng mới được đưa ra sản xuất, nhiều giống đang thuộc cơ cấu chủ đạo tại các địa phương như giống chè LDP1 (để chế biến chè xanh chiếm gần 80% diện tích tại Thái Nguyên), giống LDP2 (có khả năng chịu hạn tốt, chiếm tỷ lệ trên 85% diện tích tại tỉnh Nghệ An), giống chè PH8 (thích hợp cho chế biến chè xanh chất lượng cao, chè ô long, chiếm diện tích lớn tại các tỉnh Lai Châu, Lào Cai)…

Chia sẻ tại Hội thảo, ông Lê Quốc Doanh, Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam - nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT nhìn nhận, khoa học công nghệ là nền tảng, là đòn bẩy để phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt, khoa học công nghệ trong nông nghiệp có vai trò “quyết định” đến năng suất cây trồng, vật nuôi. Thời gia qua, ngành nông nghiệp của chúng ta đã tạo ra những giống cây, con được thế giới đánh giá cao. Gạo ST25 của chúng ta được đánh giá là gạo ngon nhất thế giới là một minh chứng.

7de1599e2dc7a299fbd6_1764934675.webp
Ông Lê Quốc Doanh, Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam - nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT nhìn nhận, khoa học công nghệ là nền tảng, là đòn bẩy để phát triển kinh tế đất nước

Phát triển khoa học công nghệ luôn phải gắn chặt với đào tạo nguồn nhân lực. PGS, TS. Mai Thị Huyền, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang chia sẻ, trong hệ thống các trường đại học của ngành nông nghiệp và môi trường, nhà trường luôn chú trọng đạo tào những ngành có ưu thế và dư địa phát triển như trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ thực thẩm, công nghệ sinh học… nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cũng như ứng dụng khoa học công nghệ cho các tỉnh miền núi phía Bắc. Việc Bộ tổ chức Hội thảo hôm nay là cơ hội để các nhà khoa học, cơ quản quản lý, các doanh nghiệp… cùng nhau trao đổi và có những kết nối để đưa vùng miền núi phía Bắc phát triển.

95712aa55efcd1a288ed_1764934680.webp
PGS, TS. Mai Thị Huyền, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nông Lâm Bắc Giang chia sẻ, nhà trường có thế mạnh trong đào tạo các ngành trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ thực thẩm, công nghệ sinh học 

Kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, dư địa phát triển nông lâm nghiệp vùng miền núi phí Bắc còn rất lớn. Không có khoa học công nghệ thì không có ngành nông nghiệp phát triển như ngày hôm nay. Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là chìa khóa để phát triển nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Đối với vùng miền núi phía Bắc, khoa học công nghệ cần tập trung vào những lĩnh vực, địa phương có thế mạnh như cây ăn quả, cây lâm nghiệp, chăn nuôi…

Muốn cùng nhau phát triển, các địa phương trong vùng phải liên kết, phải có cơ chế phối hợp giữa các viện, trường, đồng thời phải nhận diện được những hạn chế, tồn tại, bất cập, những điểm nghẽn trong hoạt động khoa học công nghệ nông nghiệp. Phải tăng cường liên kết “6 nhà”, phát huy vai trò đầu tàu của doanh nghiệp trong sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất trồng trọt nói riêng. Cần định hướng cơ cấu sản xuất trồng trọt, sản phẩm phù hợp với thị trường và lợi thế từng địa phương, từng vùng; phát triển hệ sinh thái nông nghiệp theo chuỗi đa giá trị. Đặc biệt, các nhà khoa học là nhân tố rất quan trọng để tạo ra những giống cây, con có chất lượng, có giá trị để giúp người dân phát triển kinh tế, mang lại ấm no cho người dân…

Lê Hải - Sỹ Tùng