news

Đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

Thứ hai, 18/12/2023, 15:45 (GMT+7)
logo Sau 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (Nghị quyết số 24-NQ/TW) các cấp ủy, chính quyền và người dân đã tích cực thực hiện. Thông qua Nghị quyết 24-NQ/TW, các chủ trương, đường lối của Đảng đưa ra đã được triển khai thực hiện và đạt nhiều kết quả quan trọng. 

Đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường

Bộ trưởng Bộ TN&MT Đặng Quốc Khánh tham dự và đồng chỉ trì Hội thảo

Nhận thức trong hệ thống chính trị, tầng lớp nhân dân về phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (TN&BVMT) từng bước được nâng cao, hoàn thiện. Năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH ngày càng tăng cường. Tài nguyên thiên nhiên được quản lý và sử dụng hiệu quả hơn so với trước đây. Nghị quyết số 24-NQ/TW đã đề ra những quyết sách lớn của Đảng trong ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT ở nước ta. Tuy vậy, trong triển khai thực hiện còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế.

Một số tồn tại hạn chế và nguyên nhân

Theo PGS. TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT, bên cạnh những kết quả đã đạt được, nhìn chung, mô hình tăng trưởng kinh tế vẫn chưa bền vững, tỷ lệ doanh nghiệp có công nghệ lạc hậu còn cao. Hệ thống chỉ số về tăng trưởng xanh chưa được xây dựng. Các mô hình kinh tế xanh, đô thị xanh chưa phổ biến; việc phân vùng môi trường mới đang được triển khai; quy hoạch BVMT, quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt. Các phương thức quản lý tổng hợp tài nguyên nước, tài nguyên biển, nhìn chung, chưa thực chất. Việc xây dựng hệ thống CSDL tổng hợp và thống nhất về TN&MT theo chuẩn quốc tế chưa hoàn thành.

Công tác ứng phó BĐKH, quản lý TN&BVMT vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Việc ứng phó với BĐKH, nhìn chung, còn bị động, lúng túng ở một số địa phương. Cơ sở vật chất và trang thiết bị quan trắc KTTV mặc dù đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng tình hình thực tế; công tác dự báo, cảnh báo đối với một số loại hình thiên tai xảy ra trong thời gian rất ngắn, phạm vi hẹp như mưa lớn cục bộ, lốc, sét, mưa đá, lũ quét, sạt lở đất còn hạn chế. Năng lực về cơ sở hạ tầng, hệ sinh thái chưa đáp ứng yêu cầu ứng phó với diễn biến ngày càng phức tạp của BĐKH và thiên tai. Còn bất cập trong bảo đảm an toàn hồ, đập, xây dựng các khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão; việc phục hồi đê sông, đê biển còn hạn chế. Việc chủ động di dời, sắp xếp lại các điểm dân cư ở các khu vực có nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất còn chậm. Công tác phòng chống triều cường, xâm nhập mặn, nước biển dâng ở TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long chưa đáp ứng yêu cầu. Hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) chưa tương xứng với tiềm năng của các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; thị trường cac-bon chưa được chính thức thiết lập. 

Trong quản lý tài nguyên, công tác điều tra cơ bản các loại tài nguyên chưa đáp ứng yêu cầu đi trước một bước để phục vụ quản lý; chưa hoàn thành đo đạc địa chính, điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản trên đất liền và dưới đáy biển, tài nguyên nước. Việc lượng giá, thiết lập tài khoản tài nguyên trong nền kinh tế chưa được triển khai thực hiện. Công tác lập và thực hiện quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên còn nhiều bất cập. Việc thực thi các chính sách, quy hoạch tài nguyên còn tồn tại, còn xảy ra sai phạm, đặc biệt là trong các lĩnh vực đất đai, khoáng sản, rừng. Tình trạng sử dụng lãng phí, không hợp lý, kém hiệu quả và không bền vững tài nguyên đất, khoáng sản, tài nguyên nước vẫn còn tồn tại. Tiếp cận thị trường trong quản lý tài nguyên đất, khoáng sản, tài nguyên nước chưa hoàn thiện. Công tác bảo vệ tài nguyên rừng và nguồn lợi thủy sản không ngăn chặn được xu hướng suy giảm. Việc lập và thực hiện quy hoạch các dự án phát triển năng lượng tái tạo còn bất cập, không theo kịp thực tiễn phát triển công nghệ và giảm chi phí. Hợp tác thăm dò, khai thác tài nguyên ở nước ngoài chưa phát triển; công tác nghiên cứu, chế tạo các vật liệu mới nhìn chung chưa có nhiều chuyển biến.

Bảo vệ môi trường, ô nhiễm môi trường (ONMT) ở một số nơi, một số thời điểm còn bức xúc, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt xử lý bằng phương pháp chôn lấp còn cao, trong khi chất thải nhựa còn lớn. Hạ tầng kỹ thuật về BVMT chưa đáp ứng được yêu cầu; nước thải sinh hoạt chưa được thu gom và xử lý triệt để. Vẫn còn tình trạng lén lút xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường. Nhiều khu vực ô nhiễm, suy thoái môi trường chưa được phục hồi. Chất lượng và tính ĐDSH của rừng còn thấp, rừng tự nhiên phục hồi chậm. Việc thành lập mới và mở rộng diện tích các khu bảo tồn thiên nhiên chậm so với mục tiêu đề ra. Quần thể các loài động thực vật hoang dã tiếp tục suy giảm; vẫn còn các nguy cơ từ sinh vật ngoại lai xâm hại và rủi ro từ sinh vật biến đổi gen.

Về nguyên nhân khách quan, BĐKH diễn biến phức tạp, khó lường; việc gia tăng khai thác tài nguyên nước từ phát triển thủy điện các quốc gia thượng nguồn; sự gia tăng dân số, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ; số lượng nguồn thải lớn làm gia tăng phát thải KNK, suy thoái, cạn kiệt tài nguyên, ONMT và suy giảm ĐDSH. 

Về chủ quan, việc lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp chưa thật sự quan tâm sâu sắc đến ứng phó với BĐKH, quan lý TN&BVMT. Nhận thức, ý thức về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT chưa cao. Việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Nghị quyết còn chậm. Hệ thống thể chế, chính sách pháp luật về TN&MT vẫn còn tồn tại một số bất cập, thiếu tính ổn định, đồng bộ. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật còn chưa đầy đủ. Việc thực thi pháp luật còn nhiều yếu kém; công tác thanh tra, kiểm tra còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu. Nguồn lực tài chính, con người, trang thiết bị cho quản lý TNN&MT còn thiếu và yếu. Việc ứng dụng KHCN trong quản lý TNMT chưa thực sự mạnh mẽ; chuyển đổi số của ngành mới được triển khai.

Đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp

PGS. TS. Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT cho biết, qua quá trình tổng kết thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW và Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý TN&BVMT, có thể nhận thấy rằng nhiều quan điểm của Nghị quyết vẫn còn nguyên giá trị, cần được giữ cho giai đoạn sắp tới đến 2030. Đồng thời, một số vấn đề đang nổi lên cần được xem xét, cập nhật chỉnh sửa và bổ sung. Đặc biệt, cần thiết lập các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể đến năm 2030 có tính khả thi để tổ chức thực hiện. 

Đề xuất quan điểm, mục tiêu: Về quan điểm, ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT phải dựa trên chuyển đổi số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0; chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, gắn với chuyển đổi năng lượng công bằng và phát triển hệ thống lương thực trách nhiệm, bền vững; phục hồi và phát triển các hệ sinh thái tự nhiên. Ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội; Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt; người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể thực hiện cùng với sự tham gia hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh áp dụng tiếp cận thị trường, các công cụ kinh tế để sử dụng hiệu quả các nguồn lực.

Ứng phó với BĐKH phải chú trọng đồng thời thích ứng với các tác động của BĐKH, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai và thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0”; là cơ hội để phát triển bền vững đất nước; phải quán triệt nguyên tắc công lý, công bằng, với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân; góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ, tích cực hội nhập.

Về mục tiêu tổng quát đến 2030, về cơ bản, chủ động thích ứng với BĐKH, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải KNK; có bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng tài nguyên theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững; ngăn chặn xu hướng gia tăng ONMT, suy giảm ĐDSH nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường.

Đến năm 2050, chủ động ứng phó với BĐKH, đạt phát thải KNK ròng bằng “0”; khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững tài nguyên; bảo đảm chất lượng môi trường sống và cân bằng sinh thái, phấn đấu đạt các chỉ tiêu về môi trường tương đương với mức hiện nay của các nước công nghiệp phát triển trong khu vực.

Về các giải pháp và nhiệm vụ trọng tâm: Dựa trên các kết quả đánh giá, đặc biệt là phân tích các hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, cần đề xuất được các nhóm giải pháp và các nhiệm vụ trọng tâm để tiếp tục đạt được một số chỉ tiêu theo yêu cầu của Nghị quyết số 24-NQ/TW. Cần tiếp tục tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; tuyên truyền, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của người dân, doanh nghiệp; huy động sự tham gia của cộng đồng trong ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN; tăng cường thực thi chính sách, pháp luật về ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Huy động nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế cho ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thống nhất. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong ứng phó với BĐKH, quản lý TN&BVMT.

Một số nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, về các nhiệm vụ chung, gồm: Phát triển kinh tế tuần hoàn; phát triển năng lượng bền vững; chuyển đổi hệ thống lương thực thực phẩm minh bạch, trách nhiệm và bền vững. Về ứng phó với BĐKH: Đối với thích ứng với BĐKH, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật để nâng cao khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, KT-XH, bảo đảm sinh kế bền vững; giảm thiểu thiệt hại do thiên tai và khí hậu cực đoan gia tăng do BĐKH. Về giảm phát thải KNK, xây dựng, vận hành thị trường các-bon trong nước và mở rộng, kết nối với thị trường các-bon quốc tế. Xây dựng, phân bổ hạn ngạch phát thải KNK; cập nhật, vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu trực tuyến về kiểm kê KNK.

Về quản lý tài nguyên, tập trung sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Khoáng sản năm 2010 theo hướng khắc phục các bất cập, chồng chéo trong quản lý. Rà soát, điều chỉnh, xây dựng và ban hành các quy hoạch về tài nguyên đất, nước, khoáng sản, rừng, biển và hải đảo theo quy định của Luật Quy hoạch; rà soát, đánh giá các chương trình, kế hoạch, đề án và đề ra các giải pháp thực hiện hữu hiệu. Về BVMT: Xây dựng và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục, cải thiện ONMT giai đoạn 2025-2030. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BVMT 2020, tập trung các chính sách về quản lý, tái chế chất thải; phân loại chất thải tại nguồn; giảm thiểu ô nhiễm chất thải nhựa,… Xây dựng và thực hiện các quy hoạch BVMT quốc gia, quy hoạch bảo tồn ĐDSH quốc gia; các nội dung BVMT và bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Tổng kết thi hành Luật ĐDSH 2008 để đánh giá các bất cập và đề xuất các giải pháp tăng cường công tác bảo tồn thiên nhiên và ĐDSH.

NGUYỄN ÁNH

Bộ Tài nguyên và Môi trường

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17+18 (Kỳ 1+2 tháng 9) năm 2023