Đồng bằng sông Cửu Long chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng thích ứng bền vững với biến đổi khí hậu

Thứ hai, 30/12/2024, 08:30 (GMT+7)
logo Trong quá trình phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nghiêm trọng nhất là thách thức về biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan. Do đó, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp giúp người dân thích ứng hiệu quả, bền vững trước tác động của biến đổi khí hậu.

Đồng bằng sông Cửu Long chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng thích ứng bền vững với biến đổi khí hậu

Diễn biến bất thường từ biến đổi khí hậu

Đồng bằng sông Cửu Long là một trong số ít đồng bằng lớn trên thế giới bị tác động mạnh nhất do BĐKH, nước biển dâng. 

Những năm gần đây, BĐKH gây ra những hiện tượng thời tiết cực đoan như hạn hán, lũ lụt thất thường, xâm nhập mặn, nước biển dâng,... Đối với ĐBSCL, tác động của BĐKH gây ra ảnh hưởng nặng nề đến việc sản xuất nông nghiệp và đời sống của bà con. 

Những thách thức chủ yếu bao gồm: Gia tăng nhanh chóng các hoạt động phát triển KT-XH và sự hạn chế của tư duy, mô hình phát triển, của công tác quy hoạch, kế hoạch, hạn chế của những cơ chế, chính sách hiện nay đối với ĐBSCL và thách thức do BĐKH, nước biển dâng cũng như các hoạt động trên thượng nguồn sông Mê Công ngoài biên giới nước ta.

Thống kê cho thấy, từ đầu mùa khô năm 2024 đến nay, hạn hán và xâm nhập mặn đã làm hơn 50.000 hộ dân ở ĐBSCL bị thiếu nước sinh hoạt; gần 1.000 tuyến đường, bờ kênh, nhà ở, kho xưởng, cầu giao thông bị hư hỏng, đổ sập do sụt lún, sạt lở; hàng ngàn ha rau màu bị thiếu nước tưới, chết khô; hàng trăm ha rừng bị cháy rụi,… Ngoài ra, cả vùng hiện có hơn 800 khu vực sạt lở với tổng chiều dài hơn 1.000km; trung bình mỗi năm mất từ 300 đến 500 ha đất do lở bờ sông, bờ biển. Tính riêng tỉnh Cà Mau, từ năm 2011 đến nay đã có hơn 350km bờ biển bị sạt lở, làm mất hơn 5.300 ha đất sản xuất, đất ở và rừng ngập mặn.

Theo thống kê của Cục quản lý đê điều và phòng chống thiên tai (Bộ NN&PTNT), năm 2023 có tới 13 tỉnh thành ĐBSCL có tới 558 vị trí sạt lở bờ sông với chiều dài hơn 740 km. Trong đó, 81 vị trí sạt lở đặc biệt nguy hiểm, 137 vị trí sạt lở nguy hiểm. Tốc độ sụt lún trung bình hàng năm cho toàn khu vực trong giai đoạn này là 1,07cm/năm (từ 0,38cm đến 1,99 cm/năm).

Ngoài tình trạng sụt lún, ĐBSCL còn phải đối mặt với tình hình xâm nhập mặn gây ảnh hưởng nặng nề đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của bà con. Theo Cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT), từ đầu năm 2024 tới nay, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến vùng nước ngọt tại ĐBSCL sớm hơn trước 1-1,5 tháng. Từ tháng 4/2024 đến nay, xâm nhập mặn vùng ven biển gia tăng, một số thời điểm độ mặn tăng cao đột biến. Như ngày 18-22/4, tại cầu Cái Tư (sông Cái Lớn) độ mặn hơn 3-4 g/lít, tại Bắc Hồng Dân hơn 10 g/lít, ảnh hưởng đến lấy nước cho sản xuất nông nghiệp tại các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là nguồn nước thượng lưu về ĐBSCL từ tháng 4 đến tháng 7/2024 ở mức thấp, kết hợp với nắng nóng kéo dài, lượng nước bốc hơi cao. Theo dự báo của Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia, từ tháng 5 đến tháng 9/2024 xâm nhập mặn sẽ có xu hướng giảm ở các vùng ĐBSCL.

Giải pháp thích ứng bền vững với biến đổi khí hậu 

Bộ TN&MT cho biết, thực hiện hiệu quả các giải pháp ứng phó với BĐKH trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH theo Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH và Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Chính phủ đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tại Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 với các nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể như: Tập trung sản xuất nông nghiệp chống chịu, thích ứng với BĐKH; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp hiệu quả cao, tối ưu hoá giá trị nông nghiệp; phát triển công nghệ về giống, công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản, thuỷ sản.

Đồng thời, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, xây dựng mạng lưới đường bộ cao tốc, đường thuỷ nội địa kết nối mạng lưới đô thị vùng; Chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với từng vùng sinh thái; chủ động “sống chung với lũ và hạn hán, xâm nhập mặn”, khai thác lợi thế để phát triển bền vững. Cùng với đó là xây dựng chiến lược tổng thể bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công; kiểm soát khai thác nước ngầm và tình trạng sụt lún đất do khai thác nước ngầm; xây dựng hệ thống công trình trữ nước mùa mưa, điều hoà nguồn nước cho mùa khô để giảm thiểu tác động của hạn hán và xâm nhập mặn.

Đồng bằng sông Cửu Long cần xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống đê biển, đê bao, bờ biển, công trình kiểm soát lũ, mặn, hệ thống thuỷ lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững; Xây dựng, củng cố công trình phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo đảm an toàn cho dân cư và cơ sở hạ tầng; phát triển rừng ngập mặn và các đa dạng sinh học ven biển gắn với bảo đảm đa dạng sinh học và sinh kế bền vững; Hoàn thiện chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ; củng cố, nâng cấp công trình kết hợp sơ tán dân phòng chống lũ, bão.

Về lâu dài, ĐBSCL cần chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng thích ứng, bền vững, tổ chức không gian lãnh thổ và chuyển đổi cơ cấu ngành nghề trong vùng dựa trên nền tảng tự nhiên là đất, nước và con người nơi đây, xét trong bối cảnh BĐKH và nước biển dâng, như: Xây dựng Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững toàn vùng, phù hợp với các tiểu vùng sinh thái gắn với ba nhóm sản phẩm chủ lực là thủy sản - cây ăn quả - lúa gạo; giảm diện tích trồng lúa và các cây trồng sử dụng nhiều nước ngọt nhưng giá trị thương mại thấp. Khuyến khích phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp với du lịch sinh thái; phát triển ngành thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của vùng, có quy mô lớn, hiện đại, sức cạnh tranh cao và bền vững; ưu tiên đầu tư phục hồi, trồng mới rừng ngập mặn và rừng phòng hộ ven sông, ven biển;… đặc biệt, rà soát quy hoạch thủy lợi phòng, chống thiên tai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với bối cảnh mới, bảo đảm giảm nhẹ thiệt hại khi có thiên tai, chủ động ứng phó với kịch bản bất lợi nhất; xây dựng đề án hiện đại hóa hệ thống thủy lợi phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững tại các tiểu vùng sinh thái theo hướng đa dạng hóa nguồn lực và phương thức thực hiện, trong đó chú ý đẩy mạnh hình thức đối tác công - tư.

TUẤN NGỌC
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 17 (Kỳ 1 tháng 9) năm 2024