Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật đất đai về thu hồi đất công do doanh nghiệp vi phạm trong quá trình thoái vốn, cổ phần hóa

Thứ sáu, 17/1/2025, 08:20 (GMT+7)
logo Thời gian qua, các cơ quan chức năng, trong đó có Thanh tra Chính phủ đã vào cuộc rất tích cực và đã có kết luận chỉ ra nhiều vụ sai phạm liên quan công tác quản lý đất đai công sản của nhà nước, đặc biệt là những vụ việc vi phạm chuyển nhượng đất đai trong quá trình doanh nghiệp nhà nước thoái vốn, cổ phần hoá.

Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật đất đai về thu hồi đất công do doanh nghiệp vi phạm trong quá trình thoái vốn, cổ phần hóa

Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, việc thu hồi đất công bị thất thoát do sai phạm từ quá trình thoái vốn, cổ phần hóa của một số doanh nghiệp nhà nước hiện nay đang gặp những khó khăn nhất định làm chậm quá trình thu hồi đất, ảnh hưởng đến công tác quản lý đất đai nói chung, gây lãng phí nguồn lực kinh tế của đất nước và gây thiệt hại lớn cho ngân sách nhà nước.

Thực trạng và quy định pháp luật công tác thu hồi 

Một trong những tồn tại lớn cần giải quyết đó là xử lý các vi phạm trong công tác quản lý đất đai (QLĐĐ) khi thoái vốn và cổ phần hóa DNNN. Thời gian vừa qua, công tác quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng (đất công) vẫn còn nhiều kẽ hở trong cả quy định pháp luật lẫn việc áp dụng, thực hiện pháp luật trên thực tế dẫn đến ngân sách nhà nước chịu tổn thất nặng nề, thất thu hàng nghìn tỷ đồng. Trong đó, sự thất thoát lãng phí đất công là do một số nguyên nhân điển hình đáng chú ý như: Thất thoát do chuyển quyền sở hữu, tư nhân hóa đất công thông qua việc doanh nghiệp tư nhân góp vốn, đầu tư vào các DNNN đang cổ phần hóa hay thoái vốn mà không công khai, không thông qua đấu giá, không được cấp có thẩm quyền cho phép; thất thoát do tính toán không đúng, không đủ giá trị QSDĐ, quyền thuê đất và các giá trị lợi thế kinh doanh khác.

Vài năm trở lại đây, với mục đích tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và kiểm tra xử lý các sai phạm nhằm nâng cao hiệu quả công tác thoái vốn, cổ phần hóa DNNN, các cơ quan chức năng đã tích cực cùng vào cuộc để thanh kiểm tra, đánh giá thực trạng, tìm ra phương hướng, giải pháp đẩy lùi những tác động tiêu cực. Qua quá trình rà soát, kiểm tra, các cơ quan chức năng đã phát hiện được không ít doanh nghiệp, dự án có sai phạm, nguy cơ gây thất thoát đất công trong đó có nhiều khu đất ở vị trí “vàng” với giá trị lớn.

Một số khó khăn, bất cập khiến việc thu hồi đất (THĐ) công chậm trễ, thiếu kiên quyết đó là việc lợi dụng kẽ hở của pháp luật, gây khó khăn cho công tác THĐ; vướng mắc trong xác định chủ thể bị THĐ và trách nhiệm bàn giao. Bởi trong quá trình THĐ, việc xác định đúng chủ thể bị THĐ là rất quan trọng. Nếu không xác định được ai là người có quyền đang quản lý SDĐ thì không thể thực hiện THĐ theo trình tự pháp luật đã quy định. Theo đó, thực tế từ việc triển khai THĐ công bị thất thoát đang gặp “bối rối” trong việc xác định chủ thể bị THĐ như sau: Trường hợp, xác định chủ thể bị THĐ là DNNN đã thoái vốn, do có hành vi vi phạm gây ra việc thất thoát đất công nên buộc phải có trách nhiệm trả lại đất. Nếu xác định như vậy thì quyết đinh THĐ sẽ không mang tính khả thi khi THĐ và không phù hợp hiện trạng sử dụng của khu đất bởi lúc này DNNN đã thoái vốn, chuyển QSDĐ cho doanh nghiệp khác và không còn liên quan dến diện tích đất bị thu hồi nữa nên không có quyền bàn giao và trả lại đất. Mặt khác, trường hợp DNNN chưa hoàn thành thủ tục pháp lý về chuyển QSDĐ cho doanh nghiệp tư nhân nhưng trên thực tế các bên đã bàn giao đất và hoàn thành nghĩa vụ thanh toán thì khi xác định chủ thể bị THĐ cũng gặp khó. Nhiều trường hợp việc THĐ chỉ thực hiện được trên giấy tờ mà không thực hiện được trên thực tế bởi về lý thuyết DNNN là chủ thể bị THĐ nhưng lại không bàn giao được đất vì đất đang do doanh nghiệp khác quản lý sử dụng. Ngoài ra, trường hợp DNNN đã thoái vốn xong, hoàn thành thủ tục pháp lý cho doanh nghiệp tư nhân được SDĐ nhưng tại thời điểm thu hồi doanh nghiệp tư nhân đã không còn hoạt động hoặc chỉ là các công ty “ma” được dựng lên thì cũng là trở ngại làm ảnh hưởng đến việc THĐ công vì khó xác định được chủ thể bị thu hồi và có trách nhiệm bàn giao đất. Bên cạnh đó, trình tự, thủ tục bị kéo dài, chậm trễ mà không bị truy trách nhiệm.

Giải pháp tăng cường hiệu lực thực thi chính sách pháp luật về quản lý đất đai

Thứ nhất, trong bối cảnh triển khai khung chính sách pháp lý mới thực thi và xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2024, cần rà soát, đánh giá thực tiễn công tác THĐ công do DNNN vi phạm trong quá trình thoái vốn, cổ phần hoá, từ đó, khẩn trương sửa đổi quy định hoặc ban hành văn bản mới hướng dẫn kịp thời nhằm đẩy nhanh quá trình THĐ công có sai phạm, giảm thiệt hại cho ngân sách.

Thứ hai, cải cách trình tự, thủ tục THĐ do vi phạm. Trình tự, THĐ do vi phạm cần phải được cụ thể hóa chi tiết để đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn triển khai. Trong đó, cần bổ sung thêm quy định về thời hạn hữu hạn để thực hiện từng giai đoạn của thủ tục THĐ, yêu cầu chủ thể bị THĐ phải có trách nhiệm trong việc chấp hành quy đinh pháp luật và quyết định THĐ, đồng thời, phải đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể đã đầu tư vào đất, các tài sản gắn liền với đất, giá trị tài sản còn lại,... theo hướng hỗ trợ một phần chi phí hoặc yêu cầu các bên liên quan, bên có vi phạm phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại do minh gây ra,...

Thứ ba, nâng cao công tác QLĐĐ, trách nhiệm cán bộ. Nhằm hạn chế các sai phạm về quản lý đất công, buộc phải thực hiện thu hồi thì cần nâng cao công tác QLĐĐ, nâng cao trách nhiệm cán bộ. Theo đó, các cơ quan QLĐĐ cần nâng cao trách nhiệm để kịp thời phát hiện và đề xuất giải pháp ngăn chặn sai phạm, chống thất thoát và THĐ công. Do dó, cần có cơ chế giám sát chặt chẽ, sát sao của các cơ quan có thẩm quyền QLĐĐ đối với việc cổ phần hóa, thoái vốn của DNNN và việc thực hiện chuyển nhượng dự án đất công, đồng thời, quản lý chặt chẽ quy hoạch, kế hoạch, mục đích SDĐ nhằm hạn chế những vi phạm có thể xảy ra.

Thứ tư, cần khẩn trương xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu lĩnh vực bất động sản, ngân hàng chuyển nhượng vốn góp, cổ phần để kiểm soát tài sản chặt chẽ, tăng tinh minh bạch trong SDĐ đai và giúp các cơ quan quản lý có thể dễ dàng nắm bắt lịch sử biến động, tình trạng pháp lý của đất tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình THĐ công bị thất thoát.

Thứ năm, tăng cường kiểm tra rà soát và phối hợp liên ngành trong công tác THĐ. Bên cạnh công tác QLĐĐ thì việc tăng cường kiểm tra rà soát và phối hợp liên ngành trong công tác THĐ cũng vô cùng quan trọng. Theo đó, nhằm đảm bảo cho việc THĐ được diễn ra theo đúng trình tự pháp luật, thực hiện đúng thời gian quy định thì cần có cơ chế kiểm tra để nêu cao trách nhiệm cùa các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền THĐ. Ngoài ra, cần nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan để kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm thời như thu giữ, kê biên đất nhằm kịp thời rà soát, xử lý việc chuyển nhượng đất bất thường, ngăn chặn việc xây dựng đầu tư vào đất để tránh bị đặt vào thế “đã rồi”. Đồng thời, trong công tác THĐ hay cưỡng chế THĐ thì cần có sự hợp tác, phối hợp liên ngành giữa cơ quan QLĐĐ, cơ quan THĐ, chính quyền địa phương, lực lượng bảo đảm an ninh,... Vì vậy, để việc THĐ được thực hiện có hiệu quả thì cần chuẩn bị, xây dựng phương án THĐ kĩ càng, có sự hiệp đồng, hỗ trợ, phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để việc THĐ được thực hiện nhanh, gọn, đảm bảo quyền hợp pháp của các bên.

Thứ sáu, tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Tiếp tục thực hiện phổ biến pháp luật, quán triệt, triển khai đầy đủ, nghiêm túc các chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước về công tác thu hồi tài sản nói chung và THĐ công bị thất thoát nói riêng, cần phải tuyên truyền, vận động cho chủ thể bị THĐ hiểu việc THĐ trái pháp luật là đúng nguyên tắc và đúng pháp luật, việc THĐ là cần thiết để hạn chế việc thất thoát và giảm thiểu thiệt hại của Nhà nước. Qua đó, chủ thể bị THĐ cần hợp tác, phối hợp tự nguyện bàn giao đất, hạn chế những sự việc đáng tiếc, tiêu cực do THĐ xảy ra.
Thứ bảy, kiến nghị tăng nặng chế tài xử lý tội phạm vi phạm quy định về sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí; xử lý các đối tượng gây thất thoát lãng phí tài sản công như đối với tội phạm tham nhũng.    

Qua nghiên cứu từ thực tiễn, có thể nhận thấy rằng, khó khăn chính trong quá trình THĐ công bao gồm sự thiếu đồng bộ trong quy định pháp lý, sự chồng chéo trong quản lý và giám sát, cũng như những rủi ro về tính minh bạch và trách nhiệm của các tổ chức liên quan.

ThS. KHỔNG VŨ HÀ
Chi hội Luật gia Tạp chí Pháp lý
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2024