Giải pháp thích nghi, ứng phó trong hạn mặn

Thứ tư, 17/7/2024, 15:12 (GMT+7)
logo Trước tình hình hạn hán, xâm nhập mặn diễn biến ngày càng phức tạp và khó lường ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), các cơ quan quản lý, nhà khoa học đã đưa ra nhiều giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm ứng phó hiệu quả với hạn hán, xâm nhập mặn, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.

Giải pháp thích nghi, ứng phó trong hạn mặn

PGS. TS. Trần Bá Hoằng - Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam: ĐBSCL có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp quốc gia nhờ các lợi thế về tự nhiên. Tuy vậy, nguồn nước, XNM ở ĐBSCL đã có nhiều khác biệt so với quá khứ và không thể đảo ngược do các yếu tố tác động từ khai thác, phát triển ở các nước thượng lưu, tác động từ phía biển và phát triển nội tại ở Đồng bằng. XNM ở ĐBSCL đã thay đổi quy luật, có xu thế xuất hiện ngày càng gay gắt và thường xuyên hơn. Bởi vậy, tôi cho rằng, chiến lược quan trọng nhất đối với Đồng bằng là chủ động thích nghi có kiểm soát, lấy tài nguyên nước làm cốt lõi để bố trí sản xuất, định hướng phát triển. Các giải pháp để vùng ĐBSCL chủ động thích ứng hạn mặn phải kết hợp đồng bộ và hỗ trợ lẫn nhau giữa giải pháp phi công trình với giải pháp công trình, cụ thể như: 

Về giải pháp phi công trình công trình: Tăng cường, hiện đại hóa công tác giám sát, dự báo chuyên ngành phục vụ cho công tác điều hành mùa vụ; tạo thuận lợi cho nhân dân có thông tin về nguồn nước tin cậy để chuyển đổi sản xuất ngắn và dài hạn; điều chỉnh mềm dẻo lịch sản xuất theo từng mùa, từng năm trong các vùng ven biển, thậm chí trên cả Đồng bằng phù hợp với dự báo nguồn nước; thay đổi, điều chỉnh các mô hình sản xuất theo hướng ít sử dụng nước ngọt, phù hợp với điều kiện tự nhiên; quản lý nước và sản xuất hiệu quả hơn. Để giải quyết vấn đề này, nhiệm vụ dự báo nguồn nước, XNM cả ngắn hạn và dài hạn là rất quan trọng. Tuyên truyền, vận động người dân sử dụng nước ngọt tiết kiệm, hiệu quả.

 Trên thực tế, chúng ta đang đi theo tất cả các hướng trên và đã giải quyết hiệu quả trong những năm qua.

Về giải pháp công trình: Tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng cường nguồn nước ngọt cho các hệ thống thủy lợi ở các vùng ven biển; đầu tư các công trình kiểm soát mặn, nguồn nước tại các vùng mặn đã vượt qua và tác động đến vào các vùng canh tác cây ăn trái. Cùng với các hệ thống thủy lợi tăng cường nguồn cấp, người dân cũng cần chủ động tích nước theo quy mô hộ gia đình, các mương, vườn. Đối với nước sinh hoạt, rà soát đánh giá tổng thể hiện trạng năng lực cấp nước của các công trình cấp nước sinh hoạt, đánh giá, xác định các giải pháp cấp nước cho những khu vực chịu ảnh hưởng hạn hán, XNM. Khu vực có thể cấp nước tập trung thì đầu tư, xây dựng mới hoặc nâng cấp, sữa chữa, mở rộng công trình hiện có. Các khu vực dân cư phân tán, hỗ trợ các dụng cụ tích trữ nước mưa để đảm bảo đủ nước sinh hoạt cho người dân trong mùa khô.

GS. TS. Nguyễn Văn Phước, Chủ tịch Liên hiệp các hội KH&KT TP. Hồ Chí Minh: Các kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và thực tế đã cho thấy, diễn biến mặn trong khu vực ĐBSCL khá phức tạp, độ mặn lớn nhất thường xuất hiện chủ yếu vào tháng 4 hoặc tháng 5 hàng năm.

Xâm nhập mặn gây ra những hậu quả hết sức nặng nề, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của cả vùng ĐBSCL. Tình hình XNM tại ĐBSCL mùa khô năm 2023-2024, theo Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia dự báo ở mức cao hơn trung bình nhiều năm và xâm nhập sâu đến hơn 60 km với ranh mặn đấn 4g/l.

Để ứng phó với tình trạng hạn hán, XNM, ở tầm vĩ mô, Bộ TN&MT đã chỉ ra nhiều giải pháp chung như: Điều chỉnh quy hoạch tổng thể và sản xuất nông nghiệp phù hợp với nguồn nước sẵn có; lựa chọn cây trồng vật nuôi thích nghi với điều kiện khô hạn và môi trường nước mặn, nước lợ; thành lập các vùng đất an toàn đối với XNM, đồng thời chủ động kiểm soát nguồn nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp; xây dựng và hoàn thiện hệ thống công trình giữ nước ngọt như: xây dựng hồ chứa nước và thu gom nguồn nước mưa; xây dựng hệ thống đê biển, đê sông, bền vững dọc theo biển Đông và biển Tây để ứng phó với mực nước biển dâng cao.

Bên cạnh đó, để ứng phó với XNM từng địa phương, từng hộ gia đình phải có các biện pháp cụ thể, thực thi phù hợp với điều kiện thực tế của mình theo các đề xuất như sau:

Đối với hộ gia đình: Từng hộ đã áp dụng biện pháp thu nước mưa (cho sinh hoạt) và nước ngọt từ sông vào mùa mưa để dự trữ cho mùa hạn tuy nhiên do nắng nóng kéo dài nên nguồn nước cạn kiệt. Do đó, cần rút kinh nghiệm cho mùa sau, dựa theo dự báo thời gian hạn hán và nhu cầu nước sử dụng của mình (sinh hoạt và tưới tiêu), các hộ cần tăng thể tích các hồ chứa nước mưa, nạo vét kênh mương, ao sâu hơn để tăng lượng nước lưu chứa, kết hợp lót chống thấm bằng bạt nhựa với che phủ bề mặt các mương, ao ví dụ bằng lá dừa để hạn chế sự thẩm thấu và bay hơi nước,… nhằm đảm bảo nước tưới cây trồng. Cần kết hợp với tưới tiêu nhỏ giọt nhằm tiết kiệm nước mà vẫn cung cấp đủ cho cây trồng.

Cấp nước sinh hoạt (nước uống) cho cộng đồng: Các công trình cấp nước hiện hữu tại địa phương cần được đầu tư, nâng cấp áp dụng công nghệ tiên tiến như màng lọc thẩm thấu ngược RO hoặc công nghệ điện hóa để khử mặn, cấp nước ngọt cho cư dân. Các khu vực chưa có hệ thống nước máy, cần dầu tư các công trình khử mặn nước sông công suất nhỏ vài chục khối trên ngày, áp dụng công nghệ mới: nước sông trước tiên được xử lý bằng qui trình truyền thống bao gồm keo tụ lắng lọc sau đó áp dụng công nghệ: (RO hoặc Điện hóa) để khử mặn để cấp nước uống. Lưu ý: Công nghệ điện hóa có chi phí xử lý thấp hơn RO rất nhiều nên có tính khả thi cao hơn.

Cấp nước bền vững cho các khu công nghiệp: Các khu công nghiệp vào mùa hạn đều thiếu nước cấp và phải mua nước từ nơi khác chở đến với chi phí khá cao (>50.000 đ/m3), điều này gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp. Trong khí đó, các khu công nghiệp đều có trạm xử lý nước thải tập trung, đạt qui chuẩn xả thải. Thông thường, nước thải sau xử này có độ mặn không cao do đó nếu tiếp tục áp dụng các giải pháp lọc màng vi lọc hoặc RO sẽ tạo ra nước sạch với chi phí thấp và sau đó cấp lại cho các nhà máy thành viên. Đây là giải pháp cấp nước bền vững cho các khu công nghiệp.

PGS. TS. Nguyễn Thị Hồng Điệp - Bộ môn Tài nguyên đất đai, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ: Khu vực ĐBSCL, đặc biệt là 8 tỉnh ven biển thường xuyên bị ảnh hưởng bởi XNM và hạn. Năm 2019-2020, nhờ chủ động ứng phó, diện tích lúa thiệt hại khoảng 14%, cây trái 85%, 24% người dân ven biển bị ảnh hưởng. Tình hình XNM và hạn hán ảnh hưởng rất nghiều đến hiện trạng canh tác và người dân sống ven biển, tình hình hạn hán cũng như sụt lún khu ven biển do khai thác quá mức nước ngầm khu vực ven biển, đặc biệt là Sóc Trăng, Bạc Liêu.

Để thích ứng với hạn mặn, chúng tôi có đề xuất hướng dẫn người dân trữ nước ngọt để phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt trong gia đình. Hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật cho người dân canh tác phù hợp với khả năng đáp ứng nguồn nước của từng vùng sinh thái. Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, vật nuôi, cây trồng phù hợp với từng vùng. Nghiên cứu, lai tạo giống cây mới chịu hạn, chịu mặn, mang lại giá trị kinh tế cao, sản xuất tập trung để phù hợp với hiện trạng canh tác. Bên cạnh đó, tăng cường quan trắc, giám sát, nâng cao năng lực dự báo mặn. Sửa chữa các công trình bị hư hỏng, xuống cấp, nạo vét khu vực cửa cống lấy nước, hệ thống kênh mương, đắp đập ngăn mặn để tận dụng tối đa nguồn nước, giảm thất thoát, lãng phí. Cuối cùng là việc trữ nước ngọt ở ven biển, có thể xây dựng hồ chứa nước ngọt như Sóc Trăng từng làm để phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất.

TS. Trần Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam: Hiện nay, XNM đã diễn ra nhiều nơi trong vùng ĐBSCL. Với hàng chục ngàn giếng đóng trong vùng, nước mặn theo đó, ngấm xuống nước ngầm, nên nước ngầm không còn là của để dành nữa. Do vậy, nguồn nước mặt được tính toán cho cả dân cư đô thị, công nghiệp, sinh hoạt và sản xuất. Theo quy hoạch cấp nước, vùng ĐBSCL chia 3 vùng gồm Bắc sông Tiền, vùng giữa và vùng Tây Nam sông Hậu. Ý tưởng xây dựng 5 nhà máy nước hình thành, Ngân hàng Thế giới (WB) đã sang nghiên cứu, nhưng nếu xây 1 nhà máy cho cả vùng lớn thì khó, do vậy, phát huy các nhà máy, vì các nhà máy cần nguồn nước lấy về để xử lý.

Thời gian tới, khu vực sẽ có 45% dân số trong đô thị vào năm 2030, có ít nhất 7-8 triệu dân trong đô thị. Nên dự án cấp nước liên vùng là vấn đề an sinh xã hội. Hạn mặn không chỉ 1-2 tuần, mà là 1-2 tháng, nên cần giải pháp kết hợp, đào hồ, nhưng ĐBSCL giờ đất nhiều vùng đã mặn, phèn. Ngoài ô nhiễm mặn, còn ô nhiễm thải, nên cần tính toán tất cả vấn đề. Cần có nhiều giải pháp để cho cả vùng chứ không riêng cho tỉnh nào. Một cảnh báo hiện nay là các nước thượng nguồn chặn dòng, văn hóa sông nước của ĐBSCL đã dần thay đổi. Vì vậy, cần sự vào cuộc của cả hệ thống, từ chính quyền cùng người dân. 

HÀ ANH (lược ghi)
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 9 năm 2024