Giải pháp thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam

Thứ hai, 6/11/2023, 14:34 (GMT+7)
logo Tại Hội nghị thượng đỉnh về biến dổi khí hậu của Liên hợp quốc năm 2021 (COP26), Việt Nam đã đưa ra các cam kết về ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó có mục tiêu “Phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050”. Chuyển đổi xanh và giảm phát thải nhằm thực hiện cam kết Net Zero là một chặng đường dài với nhiều khó khăn, thách thức. Các chuyên gia quốc tế nhận định, đây là mục tiêu tham vọng và sẽ đưa Việt Nam gia nhập hàng ngũ cùng nhiều quốc gia khác chung tay ngăn chặn tình trạng nóng lên toàn cầu.

Giải pháp thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon tại Việt Nam

Ảnh minh họa

Nhiều chính sách giảm phát thải carbon được triển khai

Theo Ủy hội KT-XH châu Á - Thái Bình Dương Liên hợp quốc (UNESCAP), kinh tế xanh là cách tiếp cận để đạt được tăng trưởng kinh tế với mục đích phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường. Kinh tế xanh tập trung vào việc đổi mới chất lượng mô hình tăng trưởng thông qua thúc đẩy hiệu quả về sinh thái, đó là mô hình phát triển chất lượng cao hơn, phát triển theo chiều sâu với mục tiêu lồng ghép bảo vệ môi trường, giảm phát thải carbon trong sản xuất kinh doanh.

 “Việt Nam: Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển” của Ngân hàng Thế giới xuất bản tháng 7/2022 nhấn mạnh tính cấp thiết của việc thích ứng với BĐKH; đồng thời, với việc cần triển khai nhiều chính sách và đầu tư công và tư để giảm cường độ carbon trong tăng trưởng và ước tính Việt Nam có thể sẽ cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD cho đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP mỗi năm, trong đó, đầu tư vào khả năng phục hồi khoảng 254 tỷ USD và thêm 114 tỷ USD cho hành trình khử carbon theo cam kết với cộng đồng quốc tế. Việt Nam cũng sẽ cần bổ sung đầu tư công bằng nhiều cải cách chính sách để thu hút đầu tư tư nhân. Thuế carbon hoặc các quy định hình thành hệ thống mua bán khí thải sẽ là chìa khóa để Việt Nam đạt được các mục tiêu phát triển và khí hậu đầy tham vọng.

Để giải quyết vấn đề thiếu hụt nguồn lực cho tăng trưởng xanh, ứng phó với BĐKH, bên cạnh việc phát huy nội lực, Việt Nam cần tăng cường hợp tác, hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế. Phát triển thị trường tài chính xanh và thị trường tín chỉ carbon sẽ là những ưu tiên cần thực hiện trong thời gian tới. Luật BVMT năm 2020 lần đầu tiên đưa ra quy định về việc tổ chức và phát triển thị trường tín chỉ carbon trong nước (Điều 139), trong đó, Bộ TN&MT được giao nhiệm vụ thiết lập tổng hạn ngạch cho hệ thống trao đổi hạn ngạch (ETS) của Việt Nam và xác định phương pháp phân bổ hạn ngạch cũng như các cơ chế tín chỉ bù trừ carbon được áp dụng trong ETS.

Ngày 7/1/2022, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP quy định chi tiết về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn và hình thành, phát triển thị trường tín chỉ carbon mà Điều 91, 139 của Luật BVMT năm 2020 đã nêu. Nghị định cũng cụ thể hóa lộ trình phát triển thị trường carbon, theo đó, sàn giao dịch tín chỉ carbon sẽ được thành lập và tiến hành thử nghiệm từ năm 2025. Quá trình thực hiện giao dịch và bù trừ tín chỉ carbon tại Việt Nam cũng tuân thủ các quy định tại Quyết định số 888/QĐ-TTg ngày 25/7/2022 về việc phê duyệt Đề án triển khai kết quả Hội nghị lần thứ 26 Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH và Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 về việc phê duyệt Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ban hành.

Ngày 18/1/2022, Chính phủ ban hành Quyết định 01/2022/QĐ-TTg quy định danh mục lĩnh vực, cơ sở phải thực hiện kiểm kê KNK, theo đó, có 1.912 cơ sở sẽ tham gia vào thị trường tín chỉ carbon trong nước. Với các văn bản QPPL đã được ban hành, đặc biệt Nghị định số 06/NĐ-CP, có thể thấy, thị trường carbon trong nước đã dần được định hình rõ nét hơn.

TS. Trương An Hà, chuyên gia nghiên cứu Tổ chức Sáng kiến về Chuyển dịch Năng lượng Việt Nam (VIETSE) nhận định: Việc xây dựng và vận hành thị trường tín chỉ carbon trong nước sẽ giúp Việt Nam nắm bắt được những cơ hội trong việc giảm phát thải carbon một cách hiệu quả, tăng khả năng tương thích với các cơ chế định giá tín chỉ carbon quốc tế, tạo cơ hội liên kết với thị trường tín chỉ carbon trên thế giới và trong khu vực, tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Hơn nữa, thị trường tín chỉ carbon còn là một cơ chế tạo nguồn lực để thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ phát thải thấp, hướng đến nền kinh tế trung hòa carbon. Điều này, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp chú trọng đầu tư chuyển đổi công nghệ để giảm thải khí carbon trong quá trình sản xuất. Thị trường tín chỉ carbon sẽ giúp Việt Nam hưởng lợi tối đa từ thương mại quốc tế, ví dụ như Hiệp định tự do thương mại EU - Việt Nam. Thị trường tín chỉ carbon cũng sẽ giúp Việt Nam tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), cũng như tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, nhất là xuất khẩu vào các thị trường khó tính có sự quan tâm cao tới BVMT như Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, theo đề án Phát triển thị trường tín chỉ carbon do Bộ Tài chính dự thảo thì sàn giao dịch tín chỉ carbon của Việt Nam phải đến năm 2028 mới chính thức vận hành. Giá tín chỉ carbon của Việt Nam giao dịch trên thị trường quốc tế hiện vẫn còn khoảng cách khá xa với giá tín chỉ giao dịch tại EU hay Mỹ. Thực tế hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu, cập nhật thông tin về các quy định, nguy cơ và giải pháp liên quan đến giảm phát thải khí nhà kính tác động trực tiếp và gián tiếp tới doanh nghiệp.

Giải pháp thực hiện

Để thị trường tín chỉ carbon đi tới được thành công thì ngoài nỗ lực của Chính phủ, cần sự đồng hành của toàn thể cộng đồng, doanh nghiệp và người dân tổ chức thực hiện tốt một số giải pháp chính như:

Xây dựng thể chế

Bộ Tài chính sớm trình, ban hành Đề án để tạo lập chính thức sàn giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon và quy định rõ về các hoạt

động kết nối, trao đổi tín chỉ carbon trong nước với thị trường carbon khu vực và thế giới; đánh thuế carbon.

Bộ TN&MT hướng dẫn thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế phù hợp với các quy định, điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Các bộ, ngành liên quan như Bộ Xây dựng, Bộ NN&PTNT, KH&ĐT, GTVT,... xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu về thị trường tín chỉ carbon, bao gồm hệ thống quản lý hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; ban hành định mức phát thải khí nhà kính trên đơn vị sản phẩm đối với các loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh. Các thông tin dữ liệu này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn trong việc xây dựng được các kế hoạch đầu tư của mình, thậm chí trong tương lai có thể tính toán được nguồn thu từ việc bán các tín chỉ carbon.

Xây dựng thiết chế: Cần xây dựng cơ chế vận hành và cơ quan chịu trách nhiệm để quản lý thị trường giao dịch tín chỉ carbon, kể cả các sàn giao dịch để thống nhất quản lý về Nhà nước. Ngoài ra nếu áp dụng đánh thuế carbon để tăng nguồn thu ngân sách, bù đắp cho quỹ tài chính xanh thì cần giao cụ thể cho cơ quan nào nghiên cứu và cơ quan nào thực hiện nội dung này.

Triển khai thực hiện: Trong quá trình tổ chức thực hiện cần có quy định cụ thể về: Công cụ định giá carbon: Các yếu tố tác động tới môi trường, KT-XH cũng cần được đánh giá, phân tích; xây dựng hệ thống giám sát phát thải khí nhà kính và hệ thống MRV (measurable, reportable and verifable - đo đạc, báo cáo, thẩm định) cấp quốc gia/ngành/tiểu ngành/cơ sở sản xuất một cách minh bạch, chính xác theo tiêu chuẩn quốc tế; xác định lộ trình giảm phát thải khí nhà kính cho từng ngành/tiểu ngành,... bổ sung nguồn lực từ cấp trung ương tới các địa phương để phát triển các dự án xanh mang tính chất định hướng, dẫn dắt thị trường đầu tư; tranh thủ nguồn lực quốc tế hỗ trợ qua quỹ tín dụng xanh và áp dụng công nghệ cũng như quy trình quản lý tiên tiến; hỗ trợ doanh nghiệp và các bên liên quan có cơ hội được tiếp cận thông tin, kỹ thuật áp dụng để chủ động sẵn sàng tham gia thị trường carbon tại Việt Nam từ đó gắn việc sản xuất với xác định lượng phát thải; xây dựng và công bố lộ trình thực hiện theo từng giai đoạn để có kế hoạch khả thi triển khai thực hiện đầy đủ các cơ chế, chính sách hỗ trợ như thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, quy hoạch, chiến lược,... của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh, góp phần bổ sung thêm nguồn lực từ các tổ chức trong và ngoài nước nhằm triển khai các dự án xanh,...

Các giải pháp đồng bộ như vậy sẽ giúp Việt Nam vừa có thể đảm bảo tính khả thi về nguồn lực tài chính, vừa đồng bộ các chính sách để phát triển nền kinh tế xanh bền vững; đồng thời, có thể tranh thủ được kỹ nghệ, phương pháp quản lý và dòng tài chính từ các nước phát triển đã cam kết hỗ trợ Việt Nam giảm phát thải, hướng tới hoàn thành mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

NGUYỄN QUANG HUÂN

Ủy viên Ủy ban khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội

Trích Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 19 (Kỳ 1 tháng 9 năm 2023)