Giảm phát thải, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh

Thứ ba, 17/5/2022, 14:21 (GMT+7)
logo Trong những năm qua, nhân loại đã trải qua “khủng hoảng kép” do biến đổi khí hậu, suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, đại dịch Covid-19, tác động nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống, sản xuất kinh doanh trên phạm vi toàn cầu. Nguyên nhân xuất phát từ mô hình phát triển thiếu bền vững kéo dài hàng thế kỷ của nhân loại, làm suy thoái các hệ sinh thái tự nhiên, làm cho khí hậu biến đổi nhanh với cường độ cao.

Giảm phát thải, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh

Ảnh minh hoạ

Kế hoạch hành động “net-zero”

Phục hồi xanh sau đại dịch Covid-19, mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” (net-zero), chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên hiện đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Việt Nam đã nắm bắt kịp thời xu thế này và có những quyết sách rất kịp thời với việc Việt Nam tích cực tham gia các sáng kiến toàn cầu tại Hội nghị COP26, nổi bật là cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ; giảm phát thải mê-tan toàn cầu; chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; hành động thích ứng toàn cầu,… Ngay sau Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam với nhiệm vụ trọng tâm là đề xuất cơ chế, chính sách, pháp luật, quy hoạch, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi và tận dụng các cơ hội huy động nguồn lực trong và ngoài nước cho phát triển hạ tầng ứng phó BĐKH và phát triển năng lượng tái tạo. Cũng ngay sau COP26, Việt Nam đã sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản QPPL về ứng phó BĐKH, BVMT và các lĩnh vực khác có liên quan như điện lực, đất đai,… để từng bước đồng bộ hành lang pháp lý cho ứng phó với BĐKH.

Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cho biết, với vai trò là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo, Bộ TN&MT đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành xây dựng đề cương Đề án triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, trong đó, Bộ đã đề xuất 9 nhóm nhiệm vụ trọng tâm triển khai kết quả Hội nghị COP26, bao gồm: Đổi mới thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; chuyển đổi năng lượng và công nghiệp; hạ tầng xây dựng và giao thông; nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất; TN&MT; thích ứng với BĐKH; nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, tăng cường năng lực, nâng cao nhận thức; an sinh xã hội, chuyển đổi công bằng và ngoại giao khí hậu.

Bên cạnh đó, các bộ, ngành đang tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách để tháo gỡ những vướng mắc về thủ tục, tạo thuận lợi để đưa các dòng vốn tài chính, tín dụng net-zero của các định chế tài chính, tổ chức tín dụng quốc tế vào Việt Nam; thu hút các dự án net-zero của các tập đoàn quốc tế, tập đoàn đa quốc gia vào Việt Nam. Trong đó, trọng tâm là rà soát, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan phù hợp với mục tiêu net-zero; hoàn thiện cập nhật Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050; rà soát, hoàn thiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2045; xây dựng kế hoạch triển khai Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch; kế hoạch thực hiện giảm 30% khí mê-tan; hỗ trợ giải quyết những khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư vào Việt Nam triển khai các dự án ứng phó với BĐKH, phát triển năng lượng tái tạo,… Đồng thời, tích cực nghiên cứu để có thể sớm trở thành thành viên của Cơ quan Năng lượng Tái tạo quốc tế (IRENA) và Liên minh Năng lượng Mặt trời quốc tế (ISA).

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, quy định pháp luật về ứng phó BĐKH; điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, ít phát thải khí nhà kính (KNK) và chống chịu tốt trước các tác động tiêu cực của BĐKH; Cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam phù hợp với lộ trình đạt mục tiêu “net-zero” vào năm 2050.

Thúc đẩy phát triển mạnh điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, điện gió trên đất liền; xem xét đề ra chính sách để loại bỏ điện than; điều chỉnh lại các mục tiêu của Chiến lược tăng trưởng xanh; xây dựng lộ trình để nhanh chóng chuyển đổi phương tiện giao thông sang sử dụng điện; tập trung xây dựng và phát triển thị trường carbon trong nước, kết nối với thị trường khu vực và thế giới; xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon và hạn ngạch phát thải khí nhà kính (KNK), nghiên cứu đề xuất hình thành Quỹ Giảm phát thải KNK.

Thực hiện các hoạt động giảm nhẹ phát thải

Trong thời gian qua có nhiều tổ chức, doanh nghiệp trong nước đã tham gia thực hiện các dự án theo Cơ chế phát triển sạch, cơ chế tín chỉ chung, cơ chế trao đổi tín chỉ carbon theo chương trình hợp tác và một số cơ chế trao đổi tín chỉ carbon tự nguyện khác. Thông qua việc thực hiện dự án các cơ chế này, các doanh nghiệp đã có thêm nguồn tài chính từ việc trao đổi, bán tín chỉ carbon, được tiếp nhận công nghệ phát thải thấp từ các nước phát triển. Để có cơ sở trao đổi, mua bán tín chỉ carbon giữa các tổ chức, doanh nghiệp trong nước, góp phần thúc đẩy thực hiện các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK, việc phát triển thị trường carbon trong nước đã được đặt ra từ năm 2011 tại Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính; quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ carbon ra thị trường thế giới, ban hành kèm theo Quyết định số 1775/QĐ-TTg. Phát triển thị trường carbon trong nước được coi là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên nêu tại Nghị quyết số 24-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng năm 2013, Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2016. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, Việt Nam chưa có nghĩa vụ bắt buộc phải cắt giảm phát thải KNK nên các doanh nghiệp không có nhu cầu mua tín chỉ carbon mà chỉ được trao đổi theo các cơ chế hợp tác với quốc tế.

Theo yêu cầu của Thỏa thuận Paris, Việt Nam phải thực hiện nghĩa vụ bắt buộc giảm phát thải KNK kể từ năm 2021 theo đóng góp do quốc gia tự quyết định, đặc biệt cần nỗ lực thực hiện các biện pháp giảm phát thải KNK hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 theo cam kết tại Hội nghị COP 26. Các công cụ định giá carbon cần được triển khai áp dụng ở nước ta, trong đó có việc phát triển thị trường carbon trong nước.

Luật BVMT năm 2020 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 10 đã quy định về tổ chức và phát triển thị trường carbon; lộ trình và thời điểm triển khai thị trường carbon trong nước đã được quy định tại Nghị định quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ô-dôn. Theo Luật BVMT, việc phát triển thị trường carbon trong nước bao gồm các hoạt động trao đổi hạn ngạch phát thải KNK và tín chỉ carbon thu được từ cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon. Các cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê KNK sẽ được phân bổ hạn ngạch phát thải KNK và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường carbon trong nước.

Triển khai các hoạt động giảm phát thải KNK và phát triển thị trường carbon là xu thế tất yếu của thế giới. Để thực thi có hiệu quả quy định của Luật BVMT về tổ chức và phát triển thị trường carbon, việc xây dựng và thực hiện Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam là hết sức cần thiết, nhằm cụ thể hóa các nội dung, hoạt động cần triển khai để thiết lập và vận hành thị trường carbon.

Triển khai thực hiện tốt thị trường carbon giúp các doanh nghiệp và toàn xã hội thực hiện các hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK với chi phí thấp, thúc đẩy phát triển công nghiệp phát thải thấp, chuyển đổi mô hình nền kinh tế theo hướng carbon thấp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải KNK theo quy định của Thỏa thuận Paris.

Ứng phó với BĐKH cùng với phục hồi sau đại dịch Covid-19 và phục hồi hệ sinh thái tự nhiên cần phải đặt trong bối toàn cầu với cách tiếp cận toàn diện, tổng thể. Đây không phải là việc một quốc gia riêng lẻ có thể làm được, mà cần có sự hợp tác, chung tay của mọi quốc gia, dân tộc. Trong đó, người dân và doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm và là chủ thể hành động. Tại hội nghị thượng đỉnh doanh nghiệp APEC 2021, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc khẳng định, phát triển bền vững ứng phó BĐKH là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và là trách nhiệm chung của tất cả các quốc gia, các nền kinh tế và doanh nghiệp; đòi hỏi sự chung tay hành động,… Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nêu ba đề xuất đến cộng đồng doanh nghiệp: Mỗi doanh nghiệp nên có kế hoạch và lộ trình cắt giảm khí thải tuân thủ mục tiêu, các chỉ số quy định của quốc gia về kiểm soát mức phát thải KNK, tiêu hao năng lượng, xanh hoá các ngành kinh tế, lối sống và tiêu dùng. Cần đầu tư cho tương lai khi hướng vào các dự án năng lượng sạch, phát triển công nghệ mới với “giá trị xanh” ngày càng cao, xây dựng nền nông nghiệp xanh thông minh; hình thành các chuỗi cung ứng xanh và khuyến khích thay đổi hành vi thân thiện với môi trường của người tiêu dùng. Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC nên xây dựng “Bộ hướng dẫn thúc đẩy kinh doanh bền vững APEC”, với trọng tâm là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước, doanh nghiệp và toàn dân Việt Nam hiểu rõ nguy cơ và cơ hội đan xen, đồng thời cam kết hành động quyết liệt để chuyển đổi mô hình kinh tế sang tăng trưởng xanh và ứng phó toàn diện với BĐKH.

NGUYỄN LINH

Bộ Tài nguyên và Môi trường