news

Hành động của chúng ta hôm nay sẽ kiến tạo Trái đất mai sau

Thứ bảy, 18/3/2023, 21:48 (GMT+7)
logo Ngày Khí tượng Thế giới năm 2023 diễn ra trong dịp kỷ niệm 150 năm thành lập Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO). Đây là dấu mốc ghi lại những thành tựu đạt được trong quá khứ, những thành quả hiện tại và tiềm năng trong tương lai, từ những phương thức điện báo, dự báo hàng hải cuối thế kỷ 19 đến siêu máy tính và công nghệ vũ trụ hiện nay.

Hành động của chúng ta hôm nay sẽ kiến tạo Trái đất mai sau

Thông điệp Ngày Khí tượng Thế giới năm 2023

Ngày nay, thời tiết ngày càng khắc nghiệt hơn, đại dương ấm hơn và có độ axit cao hơn, mực nước biển dâng cao, các tảng băng, các dòng sông băng đang tan chảy, và mức độ thay đổi này đang ngày càng gia tăng. Do ảnh hưởng của hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ trung bình toàn cầu đang cao hơn 10C so với 150 năm trước, chúng ta cần hành động nhanh chóng để cắt giảm lượng khí thải và đảm bảo các thế hệ mai sau có thể sinh tồn và phát triển trên hành tinh của chúng ta.

Lịch sử hình thành Ngành Khí tượng thuỷ văn

Dự báo thời tiết bắt nguồn từ việc chuẩn hóa dữ liệu hải văn và quan trắc khí tượng trên biển. Đô đốc FitzRoy, là người đầu tiên phát hành tin cảnh báo bão cho các thủy thủ ngoài khơi Vương quốc Anh vào năm 1860 và một năm sau đó là bản tin dự báo thời tiết đầy đủ.

Điện báo lần đầu tiên được sử dụng để truyền các bản tin thời tiết vào năm 1849. Tuy nhiên, mã Morse không đáp ứng được nhu cầu đối với một hệ thống quan trắc khí tượng đồng bộ trên một khu vực rộng lớn cùng với khối lượng dữ liệu lớn. 

Đại hội đồng Khí tượng quốc tế lần đầu tiên tổ chức họp tại Thủ đô Vienna, Áo vào năm 1873. Giáo sư Buys Ballot, Chủ tịch đầu tiên của Tổ chức Khí tượng Quốc tế cho rằng phải có một mạng lưới quan trắc khí tượng chung trên toàn thế giới, các dữ liệu quan trắc được trao đổi tự do giữa các quốc gia và thỏa thuận quốc tế về các phương pháp, các đơn vị đo được tiêu chuẩn hóa để có thể đối chiếu các dữ liệu quan trắc này. Nguyên tắc trao đổi dữ liệu quan trắc tự do là một trong những định hướng phát triển của WMO kể từ đó và vẫn còn giá trị cho đến tận ngày nay.

Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, việc tái thiết các nền kinh tế và sự bùng nổ của vận chuyển đã mở rộng khả năng quan trắc và viễn thông trên đất liền, trên biển và trên không. Năm Địa Vật lý Quốc tế 1957-1958 đã nỗ lực hợp tác để quan trắc toàn bộ bề mặt Trái đất. Chương trình khí tượng về các phương pháp quan trắc bức xạ mặt trời và ô dôn trong khí quyển đã giúp nâng cao hiểu biết về tầng ô dôn bảo vệ Trái đất và sự cần thiết phải bảo vệ tầng ô dôn khỏi các hóa chất phá hoại.

Sự xuất hiện của các vệ tinh khí tượng đánh dấu sự khởi đầu của một kỷ nguyên mới về việc bao phủ dữ liệu quan trắc cho toàn cầu. Năm 1957, Liên Xô phóng các vệ tinh quay quanh Trái đất đầu tiên là SPUTNIK-1 và SPUTNIK-2. Năm 1958, Hoa Kỳ đã phóng Vệ tinh EXPLORER-1 và Vệ tinh Quan sát hình ảnh hồng ngoại (TIROS-1), vệ tinh thời tiết chuyên dụng đầu tiên trên thế giới được phóng vào ngày 01 tháng 4 năm 1960.

Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã yêu cầu WMO nghiên cứu tiềm năng của các vệ tinh thời tiết như một phần của chương trình nghị sự về việc sử dụng không gian vì mục đích hòa bình. Bỏ qua những khác biệt về chính trị, Hoa Kỳ và Liên Xô đã đưa ra một báo cáo mà từ đó WMO đã khởi động Chương trình Giám sát Thời tiết Thế giới vào năm 1963. Chương trình này đã trở thành nền tảng cho khoa học khí quyển, dịch vụ khí tượng và hợp tác toàn cầu.

Thách thức của thế kỷ 20

Lũ lụt, hạn hán và các thời tiết khắc nghiệt khác đã gây ra thiệt hại lớn về người và sinh kế. Những sự kiện thời tiết nguy hiểm, như hạn hán nghiêm trọng ở châu Phi (đầu những năm 1970), thảm họa cơn bão chết chóc cướp đi sinh mạng của 500.000 người tại Bangladesh (tháng 11/1970), đã đưa khí tượng trở thành mối quan tâm chung, được công chúng theo dõi khắp nơi trên thế giới. Sự phối hợp và hợp tác toàn cầu dưới sự bảo trợ của WMO đã cải thiện đáng kể độ chính xác của bản tin dự báo và cảnh báo xoáy thuận nhiệt đới. Điều này đã cứu sống hàng ngàn người trong những năm qua.

Biến đổi khí hậu cũng tiến gần đến giai đoạn trọng tâm trong những năm 1970 và 1980 do lo ngại việc gia tăng phát thải khí nhà kính vào khí quyển từ các hoạt động của con người sẽ dẫn đến những thay đổi lớn về khí hậu.

Chương trình Khí hậu Thế giới được thành lập vào năm 1979. Chương trình Nghiên cứu Khí hậu Thế giới (do WMO đồng tài trợ) được thành lập năm 1980 và khoa học khí hậu đã có một bước tiến xa hơn vào năm 1988 với việc thành lập Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC).

Năm tiếp theo, WMO và UNEP đã khởi xướng quá trình đàm phán về Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC). Khí hậu ngày càng trở thành một vấn đề chính sách toàn cầu, WMO được kêu gọi cung cấp dữ liệu khoa học và dự báo thông qua các sáng kiến như Chương trình Giám sát Khí quyển Toàn cầu và Chương trình Nghiên cứu Thời tiết Toàn cầu.

Với sự phát triển trong thế kỷ 20, các nhà khí hậu học đã cảnh báo sớm các tác động ngày càng lớn hơn và rõ ràng hơn của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên việc ứng phó với biến đổi khí hậu vẫn chưa được thực sự quan tâm. Chúng ta càng trì hoãn việc giảm phát thải khí nhà kính thì việc thích ứng với biến đổi khí hậu sẽ càng trở nên khó khăn và tốn kém hơn.

Thế kỷ 21 công nghệ phát triển

Sự phát triển mạnh mẽ của các mô hình và công nghệ quan trắc mới giúp nâng cao hiểu biết về hệ thống khí hậu và thời tiết toàn cầu phức tạp trên Trái đất. Hiện nay kết quả dự báo hạn 5 ngày cũng có độ tin cậy tương đương như kết quả dự báo hạn 2 ngày của 25 năm trước. Những tiến bộ này mang lại lợi ích kinh tế hàng tỷ đô la cho thế giới.

Hiện tại, hơn 30 vệ tinh khí tượng và 200 vệ tinh nghiên cứu, 10.000 trạm thời tiết bề mặt thủ công và tự động, 10.000 trạm thám không, 7.000 tàu, hơn 1.100 phao, hàng trăm ra đa thời tiết và 3.000 máy bay thương mại được trang bị thiết bị chuyên dùng để đo đạc các thông số của khí quyển, đất và bề mặt đại dương mỗi ngày. Những thông tin quan trắc này được cung cấp miễn phí cho mọi quốc gia trên thế giới thông qua Hệ thống thông tin của WMO (WIS).

Các nhà khoa học khí tượng và khí hậu đã đưa ra các bản tin dự báo hạn mùa và hạn dài, đồng thời đang phát triển “dự báo thời tiết và khí hậu liên tục” để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về các dịch vụ thời tiết và khí hậu cho các lĩnh vực chính như nông nghiệp, y tế, nước, giao thông và năng lượng.

Ngày nay, nhu cầu tăng cường trao đổi dữ liệu trong các lĩnh vực khác như thủy văn, thành phần khí quyển, băng quyển và thời tiết không gian trở nên đặc biệt quan trọng. Một nhóm làm việc gồm Cơ quan khí tượng thủy văn quốc gia, khối tư nhân và các cơ quan nghiên cứu… được thành lập và tích cực hoạt động trong việc xây dựng và sử dụng dữ liệu. Hệ thống dữ liệu Trái đất ngày càng nhiều hơn nhờ những bước tiến trong công nghệ viễn thám trên mặt đất và không gian, cũng như tốc độ xử lý và kích thước bộ nhớ của máy tính được sử dụng cho các mô hình khí tượng.

Năm 2021, Đại hội đồng bất thường Khí tượng Thế giới đã thông qua Chính sách Dữ liệu Thống nhất của WMO. Chính sách này cung cấp bản cập nhật toàn diện về hướng dẫn trao đổi dữ liệu quốc tế về thời tiết, khí hậu và dữ liệu hệ thống Trái đất có liên quan, đồng thời khẳng định lại cam kết cung cấp miễn phí và trao đổi dữ liệu không hạn chế, vốn là nền tảng của cộng đồng WMO trong 150 năm qua.

Điều này giúp cộng đồng WMO tăng cường và duy trì tốt hơn việc giám sát và dự báo tất cả các yếu tố của hệ thống Trái đất, dẫn đến việc trao đổi và bổ sung tất cả các dữ liệu về môi trường, từ đó cho phép các thành viên WMO cung cấp các dịch vụ liên quan đến thời tiết và khí hậu tốt hơn, chính xác hơn và kịp thời hơn.

Hiện nay, các chỉ số về biến đổi khí hậu - nồng độ khí nhà kính, nhiệt độ bề mặt, sức nóng của đại dương, axit hóa đại dương, băng tan, băng biến mất trên biển và mực nước biển dâng, đều ở mức cao kỷ lục tại thời điểm quan trắc. Biến đổi khí hậu đang gây ra nhiều hiện tượng thời tiết và khí hậu khắc nghiệt hơn. Chúng ta đang tiến gần hơn đến giới hạn nhiệt độ thấp hơn 1,5°C của thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu.

Một nửa số quốc gia trên toàn cầu, chủ yếu là những nước kém hoặc đang phát triển chưa có hệ thống cảnh báo sớm, thậm chí rất ít các quốc gia có khung pháp lý để lồng ghép cảnh báo sớm với các kế hoạch ứng phó khẩn cấp. WMO chủ trì sáng kiến “Cảnh báo sớm cho tất cả” nhằm đảm bảo cho mọi người dân trên thế giới đều được bảo vệ bởi các hệ thống cảnh báo sớm trong vòng 5 năm tới.

Tổng thư ký LHQ António Guterres phát đi thông điệp khi công bố chiến dịch Cảnh báo sớm cho tất cả: “Chúng ta phải tăng cường khả năng dự báo và xây dựng năng lực ứng phó cho nhân loại. Chúng ta cần nhận ra giá trị của thông tin cảnh báo sớm và hành động sớm như những công cụ hữu hiệu để giảm nhẹ rủi ro thiên tai và hỗ trợ thích ứng với biến đổi khí hậu”.

Các hệ thống cảnh báo sớm được nhiều người coi là giải pháp dễ dàng nhất để thích ứng với biến đổi khí hậu, bởi vì các hệ thống đó tương đối rẻ và hiệu quả để bảo vệ con người và tài sản khỏi các điều kiện thời tiết và khí hậu cực đoan, bao gồm bão, lũ lụt và sóng nhiệt. Người ta ước tính rằng hệ thống cảnh báo sớm có thể mang lại lợi ích đầu tư gấp mười lần.

Hành động hôm nay, kiến tạo mai sau

Sự đầu tư phù hợp vào khoa học và công nghệ và sự tham gia tích cực từ khối nhà nước, tư nhân đã giúp cải tiến và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về công tác dự báo thời tiết, khí hậu. Điều này đã mang lại lợi ích đáng kể cho tất cả các quốc gia.

Khoa học và đổi mới cũng là những công cụ chính để bảo vệ môi trường đại dương, đây là lý do từ năm 2021-2030 là Thập kỷ Khoa học Đại dương vì sự Phát triển Bền vững. Thập kỷ này sẽ là giai đoạn quyết định để thực hiện 17 Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu đang đe dọa việc thực hiện nhiều mục tiêu trong số này. 

Uỷ ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) đã tuyên bố rằng phải có hành động quyết liệt ngay bây giờ hoặc không bao giờ. IPCC dự đoán rằng trong những thập kỷ tới, biến đổi khí hậu sẽ gia tăng ở tất cả các khu vực với những đợt nắng nóng gay gắt hơn, mùa ấm nóng dài hơn và mùa lạnh ngắn hơn. Nhưng vấn đề không chỉ là về nhiệt độ mà sẽ có những thay đổi về độ ẩm, khô hạn, gió, tuyết và băng, tại các khu vực ven biển và đại dương.

Biến đổi khí hậu làm thay đổi vòng tuần hoàn của nước. Điều này mang lại lượng mưa lớn hơn và kéo theo những đợt lũ lụt, cũng như hạn hán nghiêm trọng hơn ở nhiều vùng. Do đó, cần có hành động khẩn cấp và đồng bộ cả về lĩnh vực nước và khí hậu, đồng thời giám sát và quản lý tài nguyên nước tốt hơn để đảm bảo rằng tài nguyên nước là một phần của giải pháp khí hậu chứ không chỉ là một vấn đề.

Theo báo cáo mới nhất của IPCC, nếu không có các biện pháp giảm phát thải mạnh mẽ và nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, thì việc hạn chế sự nóng lên toàn cầu ở mức 1,5°C là điều không thể đạt được nhiệt độ toàn cầu sẽ ổn định khi lượng phát thải ròng CO2 đạt về con số không. Vì vậy, cần cùng nhau đoàn kết đứng trước thách thức của biến đổi khí hậu, đặc biệt thế hệ trẻ phải tiên phong trong các hành động vì khí hậu.

Kể từ năm 2010, chi phí năng lượng mặt trời, năng lượng gió và pin đã giảm liên tục tới 85%. Một loạt các chính sách và luật pháp ngày càng tăng đã nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm tỷ lệ phá rừng và đẩy nhanh việc ứng dụng năng lượng tái tạo. Cộng đồng WMO đang làm việc để cải thiện các dịch vụ thời tiết và khí hậu liên quan đến năng lượng tái tạo.

Các thành phố và những khu vực đô thị khác cũng mang đến những cơ hội đáng kể để giảm phát thải khí nhà kính (KNK). Điều này có thể đạt được thông qua giảm mức tiêu thụ năng lượng (chẳng hạn như tạo ra các thành phố nhỏ có thể đi bộ), điện khí hóa giao thông kết hợp với các nguồn năng lượng phát thải thấp, đồng thời tăng cường hấp thụ và lưu trữ carbon bằng cách sử dụng tự nhiên.

Hành động của chúng ta hôm nay sẽ kiến tạo Trái đất mai sau.

Huy Thế