news

Hiện đại hóa ngành Khí tượng Thủy văn trong cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư phục vụ phát triển đất nước

Thứ sáu, 28/1/2022, 22:16 (GMT+7)
logo Trong xu thế cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư, Ngành Khí tượng Thủy văn đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, xây dựng hệ thống quan trắc, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật hiện đại, tăng cường công nghệ dự báo, năng lực chuyên môn,… Từ đó, chất lượng công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn được nâng cao; các bản tin dự báo ngày càng tin cậy, hỗ trợ hiệu quả công tác phòng chống thiên tai, giảm thiểu thiệt hại, góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc gia.

Hiện đại hóa ngành Khí tượng Thủy văn trong cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư phục vụ phát triển đất nước

Ứng dụng hiệu quả tiến bộ khoa học, công nghệ

Trong những năm qua, ngành Khí tượng Thủy văn (KTTV) luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, đầu tư. Ngành đã đạt được nhiều kết quả, đóng góp quan trọng cho phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN quốc gia và phục vụ đời sống của nhân dân. Với phương châm kết hợp, tận dụng những thành tựu khoa học của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, phấn đấu vươn lên, cung cấp kịp thời thông tin, dữ liệu khí tượng, thủy văn, bảo đảm tính thống nhất, chính xác, liên tục, tin cậy, phục vụ đắc lực cho các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước, Ngành KTTV đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cụ thể, đến nay hệ thống quan trắc KTTV quốc gia và hệ thống thông tin chuyên ngành đã dần được tự động hóa với gần 3000 trạm quan trắc KTTV trên toàn quốc đang ngày đêm đảm bảo quan trắc chính xác, thông tin kịp thời diễn biến KTTV. Toàn bộ số liệu được tích hợp, tổ chức xử lý, lưu trữ, khai thác và cung cấp theo hướng tập trung, đồng bộ. Phát triển hệ thống dự báo số chi tiết với quy mô không gian đến từng đơn vị hành chính, nhất là đối với lượng mưa, qua đó tiếp tục nâng cao năng lực cảnh báo các hệ quả liên quan gồm ngập lụt, lũ, lũ quét và sạt lở đất ở Việt Nam. Bước đầu đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo AI trong quan trắc, phân tích, kết nối truyền tin và xử lý số liệu KTTV, thực thi mô hình cho đến hiển thị sản phẩm dự báo.

Nhờ ứng dụng kịp thời và hiệu quả các thành tựu tiến bộ khoa học, công tác dự báo, cảnh báo của Ngành KTTV đã có những chuyển biến rõ rệt cả về lượng và chất cũng như đa dạng hóa hình thức thông tin hướng đến từng đối tượng sử dụng như mở rộng thời hạn, xu thế thiên tai tới 10 ngày; nội dung và hình thức bản tin đã có nhiều thay đổi, tập trung cung cấp các thông tin dự báo ở quy mô nhỏ hơn (cấp huyện, cấp xã) và thời gian dài hơn. Dự báo, cảnh báo các thiên tai KTTV nguy hiểm như mưa lớn diện rộng đã được cảnh báo trước 2-3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%; đối với mưa lớn cục bộ hoặc mưa lớn trong cơn dông, cảnh báo trước từ 30 phút đến 2-3 giờ. Thời kỳ trước năm 2000, thời hạn dự báo bão mới chỉ đạt từ 18 đến 24h. Từ năm 2000 trở về đây với sự phát triển công nghệ dự báo KTTV được thực hiện theo hướng mô hình hóa, tập trung chủ yếu cho các lĩnh vực dự báo thời tiết, dự báo thủy văn và dự báo hải văn. Hệ thống mô hình dự báo hiện đại của thế giới như của Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu,… được cải tiến, phát triển cho phù hợp với Việt Nam trong dự báo bão, dự báo mưa lớn, dự báo lũ, cảnh báo lũ quét, dự báo sóng biển, nước dâng do bão hay gió mùa. Nhờ các công nghệ dự báo này, dự báo bão ở Việt Nam đã được nâng thời hạn dự báo lên 5 ngày mà vẫn đảm bảo độ tin cậy như các nước tiên tiến.

Những nỗ lực trong ứng dụng khoa học công nghệ đã cho ra đời những bản tin dự báo ngày một chất lượng với thời hạn dài phục vụ kịp thời công tác chỉ đạo điều hành phòng chống thiên tai, phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ và bộ, ngành địa phương góp phần thúc đẩy phát triển bền vững cho Đất nước.

Bên cạnh đó, Ngành đã xây dựng và từng bước đưa vào sử dụng hệ thống phần mềm tích hợp, quản lý dữ liệu tập trung, qua hệ thống phần mềm này, toàn bộ các loại dữ liệu của Ngành KTTV có thể được thu thập và nhanh chóng chia sẻ cho tất cả các đơn vị chuyên môn được cấp quyền thu nhận dữ liệu trong và ngoài Ngành KTTV phục vụ dự báo, cảnh báo khí tượng, thủy văn, hải văn thông suốt đến các Đài KTTV khu vực và tỉnh, thành phố. Hệ thống họp trực tuyến đã mang lại hiệu quả cao, đảm bảo các hoạt động nghiệp vụ KTTV diễn ra bình thường ngay cả khi thực hiện giãn cách xã hội để ứng phó với tình hình diễn biến phức tạp của dịch COVID - 19.

Mục tiêu và định hướng lớn của ngành KTTV thời gian tới

Trong Quy hoạch mạng lưới trạm KTTV quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, ngành KTTV đã xác định rõ phải hướng tới mạng lưới trạm KTTV hiện đại, có khả năng chia sẻ, kết nối linh hoạt và có tính tự động hóa cao với mật độ phân bố trạm hợp lý trên đất liền, biển, đảo, vùng trời, đặc biệt là vùng chịu tác động của các loại hình thiên tai nguy hiểm. Bảo đảm cung cấp thông tin, dữ liệu một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời trong mọi tình huống cho công tác dự báo, cảnh báo KTTV và điều tra cơ bản nhằm phục vụ phát triển KT-XH, PCTT, bảo đảm QP-AN, ứng phó BĐKH và các yêu cầu phát triển trong các thời kỳ quy hoạch. Thông tin dự báo KTTV bên cạnh mục tiêu rất quan trọng là phục vụ dự báo PCTT còn là thông tin đầu vào quan trọng phục vụ việc quy hoạch kế hoạch chiến lược phát triển của tất cả các ngành kinh tế, các vùng lãnh thổ. Đó là một định hướng quan trọng mà Ngành phải hướng tới. Để làm được điều đó, toàn ngành KTTV quán triệt thực hiện tốt Chỉ thị số 10-CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KTTV đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc ban hành Chỉ thị này của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã tiếp tục khẳng định, công tác KTTV không chỉ đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững mà còn cả trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị cho thấy, yêu cầu và nhìn nhận đánh giá coi công tác KTTV là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, thường xuyên, liên tục, phải có sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đây cũng là điều kiện tiên quyết và cơ sở chính trị hết sức quan trọng để ngành tiếp tục nỗ lực toàn diện các mặt công tác, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cùng với đó, Ngành KTTV tiếp tục xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện tốt Chiến lược phát triển ngành KTTV đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Giải pháp mà Chiến lược đưa ra là hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, tăng cường quản lý nhà nước về KTTV; hiện đại hóa hệ thống quan trắc, thông tin, nâng cao năng lực công nghệ dự báo, cảnh báo KTTV; đẩy mạnh xã hội hóa, thương mại hóa, xây dựng và hình thành thị trường dịch vụ, công nghệ KTTV; phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng KHCN và tăng cường hợp tác quốc tế KTTV. Mục tiêu chung đến năm 2030 phát triển Ngành đạt trình độ KHCN tiên tiến của khu vực châu Á; đủ năng lực cung cấp thông tin, dữ liệu KTTV đầy đủ, tin cậy, kịp thời đáp ứng các yêu cầu phát triển KT-XH, PCTT, thích ứng với BĐKH, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; hình thành và phát triển được thị trường dịch vụ, công nghệ KTTV phục vụ đa mục tiêu, đa lĩnh vực. Đến năm 2045 phát triển Ngành KTTV của Việt Nam có trình độ, năng lực tương đương các nước phát triển trên thế giới. Chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm 2030 tự động hóa đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao; phát triển, hoàn thiện mạng lưới trạm KTTV phục vụ nhu cầu của bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực có liên quan; 100% công trình phải quan trắc KTTV được thực hiện quan trắc và cung cấp thông tin, dữ liệu KTTV theo quy định của pháp luật.

Về dự báo, cảnh báo KTTV, Chiến lược phấn đấu dự báo KTTV hàng ngày trong điều kiện bình thường có độ tin cậy đạt 80-85%. Dự báo đủ độ tin cậy quỹ đạo và cường độ áp thấp nhiệt đới trước 2-3 ngày; tăng thời hạn cảnh báo quỹ đạo và cường độ bão trước 3-5 ngày. Dự báo, cảnh báo lũ đủ độ tin cậy cho các hệ thống sông lớn ở Bắc Bộ trước 2-3 ngày, ở Trung Bộ trước 1-2 ngày, ở Nam Bộ trước 10 ngày; tăng chất lượng dự báo định lượng mưa lớn trước 2-3 ngày lên thêm 5-10% so với năm 2020; cảnh báo đủ độ tin cậy lũ quét, sạt lở đất trước 6-24 giờ; tăng thời hạn dự báo thời tiết đến 10 ngày, cảnh báo xu thế diễn biến một số hiện tượng KTTV nguy hiểm đến 1 tháng, cảnh báo hiện tượng ENSO và tác động đến Việt Nam, hạn hán, xâm nhập mặn từ 3 tháng đến 1 năm. Đồng thời, cung cấp 100% thông tin phân vùng thiên tai, rủi ro thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu, tài nguyên khí hậu, tài nguyên nước phục vụ việc xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH dự án trọng điểm của quốc gia.

Hiện đại hoá ngành tiếp tục là giải pháp quan trọng, nhiệm vụ then chốt

Để đạt được các mục tiêu lớn nêu trên, Ngành KTTV tiếp tục đẩy mạnh, phát triển đồng bộ theo hướng hiện đại hóa; lấy việc đầu tư cho KHCN và đào tạo nguồn nhân lực làm giải pháp chủ yếu để phát triển trên cơ sở kế thừa và phát huy tối đa nguồn lực hiện có; khai thác triệt để thành tựu KHCN trong nước, đồng thời ứng dụng chọn lọc những thành tựu KHCN tiên tiến trên thế giới. Hiện đại hóa và tự động hóa hệ thống thông tin truyền dẫn số KTTV, nâng cao tốc độ và mở rộng băng thông, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghệ dự báo và trao đổi số liệu trong và ngoài ngành. Ngành KTTV tập trung nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo KTTV nâng cao tính chính xác, độ tin cậy của các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai xây dựng hệ thống quan trắc hiện đại, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường công nghệ dự báo, năng lực chuyên môn, đặc biệt là xây dựng và đưa vào dự báo nghiệp vụ dụng mô hình dự báo bão, mưa lớn của Việt Nam; xây dựng hệ thống giám sát BĐKH, hạn hán, xâm nhập mặn. Ngành tăng cường đào tạo cán bộ dự báo, mở rộng hợp tác quốc tế, cải tiến thay đổi nội dung, hình thức truyền tin thiên tai cụ thể như tiếp tục đầu tư xây dựng các hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, phát triển công nghệ dự báo số để tăng cường năng lực dự báo từ hạn cực ngắn đến hạn dài; xây dựng hệ thống mô hình khu vực phân giải cao, đồng hóa số liệu từ nguồn số liệu radar thời tiết, vệ tinh, trạm thám không. Xây dựng các hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, chi tiết hóa các bản tin dự báo KTTV, trong đó đặc biệt chú trọng chi tiết hóa tác động của thiên tai với các lĩnh vực KT-XH và các đối tượng chịu rủi ro thiên tai.

Ngành chú trọng xây dựng, hoàn thiện và giám sát việc thực hiện các quy trình dự báo từ Trung ương đến các Đài KTTV khu vực, Đài KTTV tỉnh, thành phố; tăng cường mật độ trạm quan trắc trên biển, số liệu bão trên biển, các trạm đo mưa tự động trên khu vực có địa hình phức tạp, các trạm quan trắc cao không, radar. Trong tương lai, xem xét đến khả năng bay thám sát bão bằng máy bay hoặc tên lửa nhằm xác định vị trí, cường độ, tốc độ, hướng di chuyển bão chính xác hơn; đầu tư nâng cấp hệ thống tính toán hiệu năng cao; hoàn thiện và đồng bộ hệ thống thông tin KTTV.

Hiện nay, Tổng cục KTTV đang phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong và ngoài nước, trong đó có Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội Viettel nhằm nghiên cứu xây dựng ứng dụng công nghệ thông tin, điện tử viễn thông cho ngành KTTV, theo định hướng chiến lược phát triển Ngành, xây dựng mạng lưới quan trắc KTTV hiện đại, đề xuất các giải pháp tiên tiến, công nghệ quan trắc KTTV ứng dụng công nghệ 4.0, để tạo bứt phá trong phát triển Ngành KTTV phù hợp với Chính phủ số trong ngành TN&MT. Đồng thời, phối hợp xây dựng và triển khai hệ thống tài nguyên số về KTTV, dịch vụ thời tiết qua hệ thống truyền hình, web, apps, bao gồm thông tin quan trắc, dự báo phục vụ các ngành, lĩnh vực khai thác, sử dụng; nền tảng quản lý và phân tích dữ liệu lĩnh vực KTTV.

Ngoài những nỗ lực nêu trên, thì một yếu tố quan trọng khác cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công trong tiến trình phát triển, hiện đại hóa ngành KTTV chính là sự quan tâm, chung tay góp sức của các cấp, các ngành và chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất, phối hợp tuyên truyền, phổ biến, lan tỏa sâu rộng Luật KTTV đến với cộng đồng để Luật KTTV thực sự đi vào cuộc sống. Trong những năm tiếp theo công tác tuyên truyền cần tiếp tục được các bộ, ngành địa phương phối hợp đẩy mạnh. Qua đó, gián tiếp góp phần tăng cường hiệu quả phục vụ phòng chống thiên tai, phát triển KT-XH của đất nước.

GS.TS. TRẦN HỒNG THÁI

Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng Thủy văn