
Đầu tư ít, hiệu quả cao
Trong khu chuồng nuôi rộng hơn 70m2, hàng chục chậu đuông dừa được anh Trọng để trên các kệ sắt, xếp đặt cẩn thận, các chậu được che đậy cẩn thận và phân loại theo từng ngày, từng giai đoạn phát triển.
Theo anh Ma Văn Trọng trong một lần đi rừng, anh tình cờ gặp loại sâu cọ này trong một thân cây cọ đã chết (tên gọi khác của đuông dừa) chúng sống trong môi trường tự nhiên, ăn rất ngon béo ngậy, anh đã về nuôi thử nghiệm và thành công nuôi mô hình này ở gia đình mình. Với chất lượng ngon anh nhận thấy không có lý do gì để không nuôi và bán ra ngoài thị trường.
Trong khoảng vài tháng đầu thử nghiệm, nghiên cứu, anh cũng vài lần gặp thất bại, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có nhiệt độ, độ ẩm, nguồn thức ăn chưa được đảm bảo. Mỗi một yếu tố lại có những ảnh hưởng khác nhau đến sự phát triển của đuông dừa. Trong đó yếu tố nhiệt độ quan trọng nhất, nhiệt độ mùa hè và mùa đông sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng trưởng của loài này. Về thức ăn nếu thức ăn đó không phải xuất phát từ tự nhiên, bị nhiễm các chất lạ, dính thuốc hóa học, thuốc bảo vệ thực vật cũng làm cho vật nuôi chết.
Anh Ma Văn Trọng chia sẻ: tôi đã từng thất bại nhiều lần do vệ sinh thức ăn không sạch, vỏ dừa mà băm cả gáo dừa, có lần dính ít thành phần lạ vào thức ăn, cả chậu thức ăn đó thiu hỏng, đuông không đẻ sinh sản được. Có lần mua phải bột ngô người dân phun thuốc bảo quản, không được phơi kỹ làm cho đuông dừa ngộ độc và chết.
Theo anh, mùa hè thường bị quá nhiệt tăng quá cao, sốc nhiệt, trong chậu nuôi sẽ phát sinh khí ga, nhiệt độ tăng cao, thức ăn lên men nhanh, chênh lệch nhiệt độ trong nhà và ngoài trời lớn cũng sẽ ảnh hưởng, nếu nhiệt độ xung quang môi trường sống lên trên 40 độ đuông sẽ không chịu được.
Thông thường nhiệt độ đẹp nhất là 30 độ, nguồn thức ăn đảm bảo sạch, không có chất bảo quản, trong khoảng nhiệt độ từ 22 độ đến 37 độ có thể nuôi được, nhưng đẹp nhất là từ 25 độ đến 30 độ, đây là thời điểm đẹp nhất để chúng giao phối và đẻ trứng.
Không cần đầu tư nhiều diện tích lớn, với khoảng 70m2 chuồng chăn nuôi, anh Trọng để trên các kệ đỡ, mỗi kệ 7, 8 tầng một chậu nên số lượng nuôi trong một diện tích khá lớn. Việc này giảm được kinh phí đầu tư ban đầu, người nuôi xử lý nhiệt độ cho toàn bộ diện tích cũng dễ dàng hơn. Muốn làm mát chỉ cần lắp điều hòa cho toàn bộ diện tích này, khi thời tiết lạnh quá có thể lắp bóng vài bóng sưởi là dễ dàng điều khiển được nhiệt độ. Khi có con giống rồi thì việc quan trọng nhất là đầu tư về thức ăn.
Quy trình nuôi trải qua các bước gồm: Nhộng đuông dừa đưa vào kén khoảng 15-20 ngày rồi trưởng thành con bọ cạp (con bố mẹ). Sau khi tách riêng trong vòng 1-2 ngày, cứ khoảng 15-20 cặp bố mẹ sẽ được đưa vào 1 chậu đã trộn sẵn thức ăn để phối giống, sản sinh trứng. Sau 10 ngày tách mẹ ra để sinh sản tiếp lứa mới (bình thường mỗi con mẹ sẽ sinh sản được 3 lứa). Chu kỳ từ lúc đuông dừa bắt đầu sinh sản đến lúc được thu hoạch khoảng 40-45 ngày.
Sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho các hộ nuôi
Với diện tích hơn 70m2, anh vừa cung cấp giống, vừa bán nhộng, thu nhập trung bình của khoảng 100 triệu một tháng, nếu trừ tiền nguyên liệu đầu vào anh sẽ được 40%, nghĩa là mất 60% chi phí cho việc chăn nuôi tháng đó. Thời điểm nào nuôi đạt chất lượng và số lượng có thể lãi được lãi 50%, tuy nhiên có thời điểm tỷ lệ sinh sản ít, số lượng ít, lãi sẽ chỉ được 20%, 30%.
Đến kỳ thu hoạch, anh Trọng nhặt riêng những con đảm bảo để bán thương phẩm. Nếu muốn gây giống sẽ tiếp tục giữ lại cho nhộng vào kén. Việc tạo kén cũng đơn giản, chỉ cần băm xơ dừa và ép chặt lại thành khung rồi bỏ nhộng vào. Với khoảng 20kg nhộng sẽ tạo ra khoảng 2.000 kén. Khi vào kén, cần tránh nguyên liệu và môi trường ẩm ướt vì sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại phát triển. Sau khoảng 15 ngày vào nhộng kén là được thu hoạch con giống.
Nói về những khó khăn gặp phải trong quá trình chăn nuôi, anh Trọng cho rằng: đây là vật nuôi mới, chưa phổ biến, ít người biết đến nên không có đầu ra cố định, người mua nuôi và tiêu dùng nhỏ lẻ, chỉ là thực phẩm cho một nhóm người, đây cũng chưa phải mặt hàng xuất khẩu. Vì để xuất khẩu được lại liên quan đến kiểm định chất lượng, lập hồ sơ và nhiều văn bản giấy tờ xuất khẩu khác.
Xuất khẩu yêu cầu số lượng lớn, chất lượng đảm bảo, đồng đều… điều này cũng đòi hỏi đầu tư nguồn vốn lớn, nhu cầu ở một số nước láng giềng là có, nhưng cơ bản là không đáp ứng được do số lượng lớn,… đòi hỏi phải có quy hoạch phạm vi rộng, nhiều hộ cùng hợp tác. Trong khi thực tế hiện nay số lượng các hộ vẫn nhỏ lẻ, tự phát, nằm rải rác khắp cả nước. Chất lượng sản phẩm không giống nhau.
Hiện nay với kinh nghiệm của mình, anh Trọng đã dành thời gian hướng dẫn nhiều hộ nghèo, cận nghèo trong xã cùng nuôi, khi có sản phẩm anh thu mua cho bà con, tạo nguồn thu nhập ổn định. Anh cũng xây dựng các video, clip chia sẻ về cách nuôi trên các nền tảng mạng xã hội. Cũng nhờ cách làm này, nhiều người dân ở các tỉnh khác nhau cũng về nghe anh chia sẻ cách nuôi, mua con giống nhằm phát triển kinh tế.