Trước sự gia tăng ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu và thiên tai, bão lũ, việc xây dựng một xã hội an toàn và bền vững trở thành ưu tiên hàng đầu. Không chỉ dựa vào nỗ lực của Nhà nước và Chính phủ, sự hợp tác quốc tế đóng vai trò then chốt trong việc đối phó với thách thức toàn cầu này. Đây cũng là yếu tố quan trọng giúp tăng cường vị thế và tầm ảnh hưởng của quốc gia trên trường quốc tế.

Bộ trưởng Bộ TN&MT Đỗ Đức Duy làm việc với ông Iain Frew, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Vương quốc Anh tại Việt Nam về tăng cường hợp tác hiệu quả hơn nữa trong lĩnh vực tài nguyên môi trường
Những năm gần đây, biến đổi khí hậu hiện đang là một trong những thách thức lớn đối với toàn thế giới. Những tác động ngày càng gia tăng của các hiện tượng khí hậu cực đoan, cùng với thiên tai, nhiệt độ và nước biển dâng trên toàn cầu, đang khiến cho các quốc gia trên thế giới phải lo ngại. Việt Nam đứng trước nguy cơ chịu tác động về tài nguyên nước, nông nghiệp và an ninh lương thực, sức khỏe. Những hệ lụy này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên mà còn đe dọa trực tiếp đến đời sống, kinh tế, và sức khỏe của con người. Chính vì vậy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu không chỉ là nhiệm vụ cấp bách mà còn là trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng và quốc gia trong giai đoạn mới.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, không một quốc gia nào có thể tự mình ứng phó hoàn toàn với biến đổi khí hậu. Hợp tác quốc tế trở thành yếu tố then chốt để chia sẻ kiến thức, khoa học và công nghệ nhằm giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Các hiệp định và thỏa thuận quốc tế như Hiệp định Paris (2015) về biến đổi khí hậu đã tạo ra nền tảng cho sự hợp tác này, cho phép các quốc gia cùng cam kết và hành động vì một tương lai bền vững. Vai trò của các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc (UN), Ngân hàng Thế giới (WB), và các tổ chức phi chính phủ cũng không thể thiếu, khi họ đóng vai trò điều phối, hỗ trợ tài chính và nâng cao nhận thức toàn cầu. Sự hợp tác toàn diện và đồng lòng của cộng đồng quốc tế là chìa khóa để chúng ta có thể vượt qua thách thức này và bảo vệ hành tinh cho các thế hệ tương lai.
Đề cập tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh hợp tác quốc tế bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tốc độ và sự bứt phá về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia còn chậm; quy mô, tiềm lực, trình độ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo quốc gia còn khoảng cách xa so với nhóm các nước phát triển; nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành, cán bộ, công chức và Nhân dân về chuyển đổi số chưa đầy đủ và sâu sắc; nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo chưa có bước đột phá, chưa làm chủ được công nghệ chiến lược, công nghệ cốt lõi; thể chế pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đáp ứng yêu cầu; nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu; hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng số còn nhiều hạn chế; an ninh, an toàn thông tin, bảo vệ dữ liệu còn nhiều thách thức; hợp tác quốc tế về ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, bão lũ còn nhiều bất cập.
Đất nước ta đang đứng trước yêu cầu cần có chủ trương, quyết sách mạnh mẽ, mang tính chiến lược và cách mạng để tạo xung lực mới, đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, để đưa đất nước phát triển mạnh mẽ bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên giàu mạnh, hùng cường, thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Vì sự phát triển của đất nước, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực và thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên, môi trường
Liên Hợp Quốc đóng vai trò quan trọng trong việc đối phó với biến đổi khí hậu thông qua Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC). UNFCCC là nền tảng cho các hiệp định quốc tế như Nghị định thư Kyoto và Hiệp định Paris, giúp các quốc gia hợp tác và cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Các hội nghị COP (Hội nghị các bên) được tổ chức hàng năm dưới sự bảo trợ của UNFCCC đã trở thành diễn đàn quan trọng để các quốc gia thảo luận, đàm phán và thiết lập các mục tiêu hành động chống biến đổi khí hậu. Các hội nghị COP thúc đẩy sự hợp tác quốc tế, cung cấp cơ hội cho các quốc gia chia sẻ kinh nghiệm, thách thức và giải pháp. Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu (2015) đã có ảnh hưởng sâu rộng đến chính sách và hành động quốc gia. Nhiều quốc gia đã tăng cường các biện pháp bảo vệ môi trường, đầu tư vào năng lượng tái tạo, và thúc đẩy các chính sách giảm phát thải. Hiệp định này đã tạo động lực cho sự thay đổi, không chỉ ở cấp độ chính phủ mà còn trong khu vực tư nhân và cộng đồng dân cư.
Ngoài các hiệp định toàn cầu, nhiều thỏa thuận khu vực và song phương đã được thiết lập để đối phó với biến đổi khí hậu. Ví dụ, Liên minh Châu Âu đã thiết lập Hệ thống Giao dịch Khí thải của EU (EU ETS) để giảm phát thải khí nhà kính trong khu vực. Các thỏa thuận song phương như Hiệp định Đối tác Khí hậu và Năng lượng Giữa Mỹ và Trung Quốc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác về công nghệ sạch và giảm thiểu khí thải.
Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các dự án phát triển bền vững. Các tổ chức này cung cấp các khoản vay và viện trợ cho các dự án năng lượng tái tạo, quản lý tài nguyên nước, và phát triển nông nghiệp bền vững. Đặc biệt, họ tập trung vào việc giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đối với các quốc gia nghèo và đang phát triển, những nơi thường bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Bằng cách cung cấp tài chính và hỗ trợ kỹ thuật, Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) giúp các quốc gia này xây dựng khả năng chống chịu và phát triển bền vững.
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) thực hiện nhiều sáng kiến và chương trình nhằm bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. UNEP hỗ trợ các quốc gia phát triển và thực hiện các chính sách môi trường hiệu quả, cung cấp các công cụ và thông tin cần thiết để quản lý tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Các chương trình của UNEP bao gồm việc thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo, bảo tồn đa dạng sinh học và giảm ô nhiễm. UNEP cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức cộng đồng và thúc đẩy sự tham gia của các quốc gia trong các nỗ lực bảo vệ môi trường.
Các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và cộng đồng khoa học đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và nâng cao nhận thức cộng đồng về biến đổi khí hậu. Các NGOs như: Greenpeace, WWF và Friends of the Earth thực hiện các chiến dịch vận động, giáo dục và nghiên cứu để thúc đẩy hành động về biến đổi khí hậu. Họ giám sát và thúc đẩy các chính phủ và doanh nghiệp thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường và giảm phát thải. Cộng đồng khoa học đóng vai trò cung cấp thông tin và bằng chứng khoa học, giúp định hình chính sách và hành động toàn cầu về biến đổi khí hậu. Những nỗ lực này đóng góp quan trọng trong việc xây dựng một tương lai bền vững và chống lại tác động của biến đổi khí hậu.
Những thỏa thuận trên đã có tác động tích cực đến nỗ lực chống biến đổi khí hậu bằng cách thúc đẩy các quốc gia chia sẻ công nghệ, kiến thức và tài nguyên, từ đó nâng cao hiệu quả của các biện pháp bảo vệ môi trường. Chúng cũng tạo ra cơ hội cho các quốc gia hợp tác và học hỏi lẫn nhau, đồng thời tạo áp lực để các quốc gia khác tham gia vào nỗ lực toàn cầu.
Từ đây có thể thấy rằng, bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, việc duy trì và tăng cường các nỗ lực hợp tác toàn cầu là vô cùng cần thiết. Không một quốc gia nào, dù lớn hay nhỏ, có thể đơn độc giải quyết vấn đề này. Chỉ có thông qua sự hợp tác chặt chẽ và toàn diện, chúng ta mới có thể đối phó hiệu quả với các thách thức mà biến đổi khí hậu đặt ra. Việt Nam, với vị trí địa lý đặc thù và sự phụ thuộc lớn vào nông nghiệp và ngư nghiệp, đặc biệt dễ bị tổn thương bởi tác động của biến đổi khí hậu. Do đó, việc tham gia tích cực vào hợp tác quốc tế không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội để Việt Nam học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm và tìm kiếm sự hỗ trợ từ cộng đồng quốc tế bảo vệ tài nguyên, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. .
Một số định hướng, giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả ứng phó với biến đổi khí hậu bảo vệ tài nguyên, môi trường
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Đến năm 2030, cơ bản đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”1. Để đạt được mục tiêu đó, cần phấn đấu thực hiện tốt một số định hướng giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân về tăng cường hợp tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đó dẫn đến sự thay đổi nhận thức và hành vi của từng cá nhân, cộng đồng. Tích cực tuyên truyền, giáo dục trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường. Cùng với đó, “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”2. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sự phát triển bền vững của đất nước, sức khỏe con người, đời sống xã hội.
Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi trường vì mục tiêu phát triển bền vững. Các văn bản pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi trường ở nước ta hiện nay có khá nhiều, nhưng chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, còn chồng chéo, mâu thuẫn, nhất là giữa các Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Khoáng sản và Luật Đa dạng sinh học. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, thống nhất. Đồng thời, đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên khoáng sản, đất, nước, rừng, biển, đa dạng sinh học, ô nhiễm và suy thoái môi trường. Xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn.
Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến cơ sở. Chú trọng phát triển tổ chức quản lý môi trường ở các tập đoàn kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất và đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng về bảo vệ môi trường.
Ba là, tập trung khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị, các cụm công nghiệp, làng nghề... Bởi vậy, các cấp, các ngành, địa phương cần “Có kế hoạch khắc phục căn bản tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân”3. Đồng thời, phải có biện pháp bảo vệ, nâng cao chất lượng môi trường không khí, hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, nhất là ở các đô thị lớn. Tập trung xử lý nước thải ở thành thị và các khu công nghiệp, xử lý rác thải ở nông thôn. Thúc đẩy tái chế sử dụng, sản xuất, thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục. Kiểm soát tốt tác động môi trường của các dự án khai thác tài nguyên. Thực hiện nguyên tắc đối tượng gây ô nhiễm môi trường phải chi trả chi phí xử lý, khắc phục hậu quả, cải tạo, phục hồi môi trường; đối tượng được hưởng lợi từ tài nguyên, môi trường có nghĩa vụ đóng góp để đầu tư trở lại cho bảo vệ môi trường. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn phát thải nhà kính.
Bốn là, tăng cường quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên; phát triển, nâng cao chất lượng rừng; tăng độ che phủ rừng gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Tăng cường bảo vệ, ngăn ngừa, kiểm soát, giảm ô nhiễm môi trường biển; bảo vệ, phát triển bền vững các hệ sinh thái, đa dạng sinh học biển, đặc biệt là các rặng san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển. “Quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng trồng rừng, nhất là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ ven biển”4. Trồng rừng và tích cực phục hồi rừng tự nhiên cũng là một cách hữu hiệu nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, bởi 80% đa dạng sinh học nằm trong rừng tự nhiên.
Năm là, nâng cao năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo khí tượng, thủy văn và cảnh báo thiên tai; năng lực chủ động phòng, tránh, giảm nhẹ, năng lực chống chịu và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đây vừa là định hướng vừa là nhiệm vụ quan trọng cần xây dựng năng lực giám sát, cảnh báo khí hậu, thiên tai thông qua việc mở rộng, phát triển, hiện đại hóa hệ thống quan trắc và dự báo khí tượng thủy văn; tăng cường phát triển hệ thống thông tin và dữ liệu về khí hậu và biến đổi khí hậu phục vụ hoạch định chính sách và triển khai thực hiện các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu; tiếp tục cập nhật, hoàn thiện kịch bản biến đổi khí hậu công bố trước khi xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để lồng ghép, điều chỉnh kế hoạch kịp thời. Bên cạnh đó, cần sử dụng tiết kiệm, hiệu quả năng lượng, phát triển và sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo trong công nghiệp, xây dựng và giao thông. Thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng các-bon thấp, tái cấu trúc các ngành kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực tiêu tốn ít năng lượng, từng bước hạn chế phát triển các ngành kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, hiệu quả kinh tế thấp.
Sáu là, thực hiện có hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững theo Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Trước hết, cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Để thực hiện thành công Chương trình này, cần hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển bền vững, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về phát triển bền vững quốc gia. Đồng thời, huy động sự tham gia của tất cả các bộ, ngành, cơ quan từ Trung ương đến địa phương, nhất là các cơ quan báo chí, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể người dân tham gia thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
Bảy là, “Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”5. Đây là định hướng cơ bản nhằm giải quyết hiệu quả những khó khăn vượt khỏi khả năng của một quốc gia. Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta đã ký kết, tham gia; đồng thời tiếp thu, vận dụng những kinh nghiệm quốc tế trong bảo vệ môi trường. Tranh thủ sự hỗ trợ về mặt tài chính, kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế trong công tác bảo vệ môi trường, nhất là các dự án từ GEP (Quỹ môi trường toàn cầu), nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của khu vực và toàn cầu. Bên cạnh đó, tích cực đấu tranh, ngăn chặn và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên và môi trường đối với tội phạm môi trường quốc tế nhằm góp phần đẩy lùi tình trạng gây ô nhiễm, xâm hại môi trường, suy thoái môi trường, suy thoái tài nguyên và suy giảm đa dạng sinh học của Việt Nam.
Tăng cường hợp tác quốc tế bảo vệ tài nguyên và môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Việt Nam cam kết sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào các nỗ lực toàn cầu, đồng thời kêu gọi sự hỗ trợ và hợp tác từ cộng đồng quốc tế. Chỉ khi tất cả chúng ta cùng nhau hành động, chúng ta mới có thể xây dựng một tương lai bền vững, an toàn và thịnh vượng cho mọi người, mọi dân tộc và quốc gia trên thế giới.
Đại tá, PGS. TS. KHQS TRẦN NAM CHUÂN
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 1+2 năm 2025