
Việt Nam hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức về tài nguyên năng lượng, bao gồm việc sử dụng không hiệu quả, thiếu nguồn cung ứng ổn định và tác động tiêu cực đến môi trường. Theo Chương trình hành động quốc gia, lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, Việt Nam đã xác định mô hình phát triển là kinh tế xanh, xã hội xanh, lối sống xanh, thúc đẩy tiêu dùng bền vững, xanh hoá quá trình chuyển đổi theo hướng phát triển bình đẳng, bao trùm, nâng cao khả năng chống chịu.
Tại COP 28, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã một lần nữa cam kết với toàn thế giới Việt Nam sẽ hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050.
TS. Tạ Quang Ngọc - Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam
Để đạt được mục tiêu đó, theo TS. Tạ Quang Ngọc một vấn đề quan trọng hơn cả là tiết kiệm tối đa lượng năng lượng sử dụng. Do đó, đặt mục tiêu tiết kiệm năng lượng trong sản xuất nói chung và ngành điện lạnh và điều hòa không khí nói riêng là một vấn đề rất lớn.
Sản xuất năng lượng đang dần chuyển từ sử dụng năng lượng hóa thạch sang các dạng năng lượng mới như: năng lượng gió, năng lượng mặt trời,… Giảm phát thải khí nhà kính, giảm dấu vết carbon trong chuỗi sản xuất công nghiệp cũng là xu thế tất yếu toàn cầu trong những thập kỷ tới. Phát triển - Nhân đạo và Cam kết quốc tế là 3 việc TS. Tạ Quang Ngọc cho rằng cần phải xử lý để hiện thực hoá chương trình hành động quốc gia, lộ trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.
"Đây gần như một cuộc chạy đua, không chỉ là thực hiện các cam kết quốc tế về tiết kiệm nằn lượng mà còn giúp tiết kiệm túi tiền cho người dân Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là vấn đề vừa mang tính phát triển vừa mang tính nhân đạo”, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam nhấn mạnh.
Hội Khoa học kỹ thuật Lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam cùng cùng với Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cũng đã có những chương trình phối hợp với nhau về mục tiêu tiết kiệm năng lượng.
“Nhưng vấn đề đang rất nóng hiện nay không chỉ của riêng Việt Nam là làm sao kịp lộ trình từ nay đến 2030 thay thế các tác nhân lạnh có thể gây thủng tầng ozon, gây ra hiệu ứng nhà kính”, ông Ngọc chia sẻ.
Với trách nhiệm thực hiện các giải pháp về tiết kiệm năng lượng, ngành Lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam cũng đã có những đóng góp trong giảm thải các tác động đến môi trường hiện nay.
Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam cho biết: Ngành Lạnh và Điều hòa không khí có lợi thế là một trong những ngành tiên phong về thiết bị thông minh, trí tuệ nhân tạo và tự động hóa, chính điều này đã phần nào giúp ngành có lợi thế trong việc giảm sử dụng năng lượng hóa thạch xuống tối thiểu.
Bên cạnh đó, khi giảm được lượng năng lượng tiêu thụ trên mỗi sản phẩm, chắc chắn sẽ được người dân và nhà nước rất đồng tình ủng hộ.
Hệ thống điện lạnh tại nhà xưởng sản xuất linh kiện (ảnh minh hoạ)
Tuy nhiên, trên bản đồ thị phần ngành Lạnh và Điều hòa không khí tại chính “sân nhà” Việt Nam, chính các doanh nghiệp Việt vẫn chưa có vị thế so với các doanh nghiệp nước ngoài. Chia sẻ về quan điểm của mình về vấn đề này, TS. Ngọc cho rằng: Việt Nam là quốc gia đang phát triển và cũng không phải quốc gia làm đầu nguồn cho chuỗi giá trị toàn cầu, do đó chúng ta đang trong quá trình tự xếp mình vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Hiện nay, việc tiêu thụ các trang thiết bị tại Việt Nam nhiều nhưng sản xuất tại Việt Nam lại chưa nhiều, mới chỉ có những công ty thi công, tư vấn,… Song, ở góc độ tích cực, các nhà máy sản xuất từ các nước phát triển đang dần dịch chuyển sang một số quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Từ đó, chúng ta có thể đi sâu thêm vào chuỗi cung ứng và “xếp” cho bản thân một vị trí phù hợp nhất, đạt được giá trị gia tăng tốt nhất, TS. Ngọc nhận định,
Để nâng cao giá trị, vị thế của doanh nghiệp Việt Nam, thực hiện được mục tiêu ghi được tên trên bản đồ lĩnh vực Lạnh và Điều hoà không khí toàn cầu, theo TS. Tạ Quang Ngọc, Việt Nam cần nhanh chóng thiết lập một cách rõ ràng về mặt chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp. Điều rõ ràng nhất là phải biến những quy hoạch chung chung ra vấn đề tín chỉ carbon.
Mặt khác, cũng cần phải tiêu chuẩn hóa một cách nghiêm ngặt đối với các doanh nghiệp trong vấn đề này, và để làm được điều này, hệ thống tiêu chuẩn của Việt Nam cũng cần phải dịch chuyển theo.
Bảo Loan