
Ảnh minh họa
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tổ chức bộ máy bước đầu được kiện toàn. Công tác dự báo, cảnh báo thiên tai đã dần được nâng cao; hệ thống cơ sở hạ tầng và công trình PCTT ngày càng tốt hơn. Công tác đào tạo, tập huấn, nâng cao nhận thức, kỹ năng được quan tâm chú trọng. Công tác truyền thông về PCTT được thực hiện thường xuyên, liên tục. Công tác cứu trợ, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai nhận được sự quan tâm đặc biệt của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Việc ứng dụng khoa học công nghệ trong chỉ đạo, chỉ huy, năng lực tham mưu ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai đã có nhiều bước tiến.
Để giảm nhẹ thiên tai thời tiết, dự báo KTTV đóng vai trò quan trọng, trong 10 năm qua, ngành KTTV đã được đầu tư nâng cấp mạng lưới quan trắc KTTV hiện đại, đồng bộ. Chuyển dần từ đo thủ công sang tự động, đan dày các trạm quan trắc ở vùng núi, vùng sâu, đảm bảo giám sát tốt các hiện tượng thiên tai. Tăng cường mạng lưới quan trắc đo mặn, giúp công tác dự báo và giám sát hạn mặn được chủ động và hiệu quả hơn so với trước đây. Minh chứng rõ nhất là chúng ta đã cảnh báo sớm được tình trạng hạn mặn đặc biệt nghiêm trọng trong một số năm qua (2016, 2020), góp phần giảm thiểu đáng kể thiệt hại về kinh tế, môi trường ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Với hệ thống 10 trạm ra đa thời tiết được nâng cấp, đầu tư, chúng ta có thể giám sát cấu trúc bão, đặc điểm các cơn bão, áp thấp nhiệt đới khi tiến vào gần đất liền, qua đó có thể cảnh báo chính xác hơn cường độ, hướng di chuyển của bão cũng như khả năng gây mưa lớn, gió mạnh đến các khu vực ven bờ và sâu trong đất liền. Với hệ thống ra đa này, chúng ta cũng đã từng bước nâng cao được chất lượng cảnh báo dông, lốc, sét, mưa đá hạn cực ngắn. Đến nay, các hệ thống mô hình dự báo thời tiết số trị của Việt Nam đã được hiện đại hóa với hệ thống đồng hoá số liệu địa phương cho mô hình khu vực độ phân giải cao (hiện nay, mức độ chi tiết đã đạt đến 3 km và trong tương lai gần sẽ đạt mức 1-2 km) cho phép nâng cao chất lượng dự báo mưa lớn, mưa cực trị, qua đó tiếp tục nâng cao năng lực cảnh báo các hệ quả liên quan như ngập lụt, lũ, lũ quét và sạt lở đất. Đồng thời đã tận dụng tối đa các nguồn số liệu có chất lượng cao đã được đầu tư (số liệu dự báo của Trung tâm Dự báo hạn vừa châu Âu) làm tiền đề cho các bài toán chi tiết hóa đối với dự báo hạn vừa đến hạn tháng và tăng cường chất lượng dự báo quỹ đạo và cường độ bão khu vực Biển Đông. Mở rộng thời hạn dự báo thời tiết, cảnh báo sớm thiên tai tới 10 ngày; nội dung và hình thức bản tin đã có nhiều thay đổi, tập trung cung cấp các thông tin dự báo ở quy mô chi tiết hơn (cấp huyện, cấp xã) và thời gian xa hơn; hướng tới phục vụ đa mục tiêu, từng bước triển khai bản tin dự báo tác động, cảnh báo rủi ro theo yêu cầu của thực tiễn công tác phòng chống thiên tai.
Dự báo, cảnh báo mưa lớn trước 2-3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%. Đối với mưa lớn cục bộ hoặc mưa lớn trong cơn dông, cảnh báo trước từ 30 phút đến 2-3 giờ. Dự báo, cảnh báo rét đậm, rét hại gây ra bởi không khí lạnh trước 2-3 ngày với độ tin cậy 80-90%. Đã mở rộng hạn dự báo bão/ áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) như dự báo đến 3 ngày, cảnh báo đến 5 ngày. Dự báo có độ chính xác dần tiệm cận với trình độ dự báo bão của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, giảm sai số từ 250-300 km trước những năm 2010 ở hạn dự báo 48h xuống khoảng 120-150 km trong những năm gần đây. Dự báo thủy văn hàng ngày đạt 80-85%; hạn vừa đạt từ 75-80%; hạn dài đạt 65-70%. Công tác dự báo, cảnh báo lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất, hiện tượng hạn hán và tình trạng xâm nhập mặn đáp ứng tốt những yêu cầu của công tác PCTT, góp phần giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai gây ra. Đã xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ lũ quét, sạt lở đất chi tiết đến cấp huyện phục vụ công tác dự báo, cảnh báo PCTT cho các tỉnh và người dân khu vực khi có mưa lớn. Công tác dự báo hải văn đã có những đổi mới vượt bậc do chủ động tiếp thu các công nghệ mới của nước ngoài. Độ phân giải cho mô hình dự báo sóng đã được chi tiết đến 4 km và dự báo sóng theo cả phương án tất định và tổ hợp, thời hạn dự báo đến 10 ngày. Các thông tin dự báo, cảnh báo được thực hiện kết nối, chuyển tải nhanh chóng, chính xác trong mọi thời điểm, tình huống thiên tai đến với đội ngũ phóng viên chuyên trách về KTTV và PCTT của các báo, đài, tạp chí, trang thông tin và các phương tiện truyền thông đại chúng ở Trung ương và Hà Nội.
Cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ yêu cầu phòng, chống thiên đê điều, hồ đập, kè, chống úng, chống hạn, chống xâm nhập mặn, chống sạt lở, chống sụt lún đất, chống lũ quét, chống sét; khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền, nhà kết hợp sơ tán dân và công trình khác phục vụ PCTT,… đã từng bước được đầu tư xây dựng, nâng cấp và phát huy hiệu quả. Đê điều, hệ thống đê điều có quy mô lớn với tổng số 53.776 km đê, đê bao, bờ bao, trong đó có 9.220 km đê (Đê sông: 6.458 km; đê cửa sông: 1.171 km; đê biển: 1.320 km; 271 km đê bao). Riêng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long còn có khoảng 44.545 km bờ bao.
Sạt lở bờ sông, bờ biển đang diễn ra trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt nghiêm trọng tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và ven biển Trung Bộ gây thiệt hại lớn về cơ sở hạ tầng, tài sản của nhân dân, uy hiếp đến phát triển bền vững kinh tế - xã hội của cả nước. Hiện nay, trên cả nước có khoảng 2.055 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên 2.710 km: Bắc Bộ có 471 điểm tổng chiều dài 413 km; Trung Bộ và Tây Nguyên có 905 điểm tổng chiều dài 1348 km; Nam Bộ có 679 điểm, tổng chiều dài 949 km; trong đó sạt lở đặc biệt nguy hiểm là 93 điểm, tổng chiều dài 273 km, riêng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện 58 điểm, dài 155,3 km. Đối với công trình bảo vệ bờ sông, đa số các công trình do vốn nhà nước đầu tư đều đã được tính toán đảm bảo quy trình quy phạm hiện hành. Tuy nhiên, đa số các công trình chỉ đủ năng lực cho chính nó, mà chưa đảm bảo lợi ích tổng hợp của các ngành. Mặt khác, do nguồn vốn có hạn, công trình vẫn còn mang tính “lở đâu xây ở đó”, chưa đủ dài tránh khả năng gây tác hại đến vùng lân cận.
Hệ thống khu neo đậu tàu thuyền được đầu tư củng cố nhằm góp phần giảm đáng kể thiệt hại đối với tàu thuyền vào tránh trú khi có bão và áp thấp nhiệt đới. Từ năm 2002 đến nay đã hoàn thành xây dựng 71 khu neo đậu (trong đó có 16 khu cấp vùng, 55 khu cấp tỉnh) với công suất 46.212 tàu neo đậu theo yêu cầu. Hầu hết cấp công trình được phê duyệt là cấp III nên các thông số thiết kế tương ứng mực nước, sóng tần suất 2%, bão cấp 9. Tuy nhiên, nhiều tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung đã có những cơ bão cấp 10, cấp 11, thậm chí cấp 12 đổ bộ, chưa tính đến nếu siêu bão đổ độ thì công trình khó có thể an toàn. Vấn đề bồi lắng khu vực cửa sông ở nhiều cửa sông, tuyến luồng để tàu thuyền có thể an toàn di chuyển vào các khu tránh trú khi có bão khá nghiêm trong. Hầu hết các khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền ở các tỉnh ĐBSCL đều bị bồi lắng và không được nạo vét thường xuyên. Nhiều khu neo đậu tránh trú bão chỉ đạt 30-60 phần trăm cho số lượng tàu thuyền cần tránh trú bão của khu vực, hoặc không đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng, trụ neo, hoặc xuống cấp, bãi neo đậu bồi lắng.
Trong những năm gần đây, tình trạng lũ quét, lũ bùn đá, sạt lở đất đã xảy ra tại hầu hết các khu vực miền núi trong cả nước từ miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, cho tới Tây Nguyên. Lũ quét và sạt lở đất diễn ra phức tạp và nguy hiểm, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, để lại hậu quả lâu dài. Chương trình bố trí dân cư những năm qua đã di chuyển trên 34.964 hộ dân ra khỏi vùng có nguy cơ cao về thiên tai (sạt lở đất, lũ ống, lũ quét, ngập lũ, sụt lún đất,…) và hàng nghìn hộ ở phân tán trong rừng phòng hộ, đặc dụng, từng bước giảm thiểu những thiệt hại về người và tài sản khi có mưa lũ, hạn chế phá rừng, di cư tự do góp phần quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và củng cố quốc phòng, an ninh. Lĩnh vực giao thông vận tải có mối liên hệ hết sức mật thiết với công tác PCTT như đảm bảo an toàn hàng hải trong bão, vận chuyển lực lượng trang thiết bị ứng phó thiên tai, điều phối nhu yếu phẩm cứu trợ khẩn cấp,... Thời gian vừa qua, hệ thống giao thông vận tải đã được đầu tư đồng bộ, hiện đại, tăng tính kết nối, hỗ trợ đắc lực cho công tác PCTT.
NGUYỄN VĂN NGỌ
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2023