
Để tăng cường khả năng đáp ứng nhu cầu về nước cho đô thị, các nhà hoạch định chính sách tại các quốc gia đang tìm kiếm những giải pháp ứng phó khác nhau như quản lý nguồn cung nước và quản lý nguồn cầu nước. Cách quản lý nguồn cung nước thường là các giải pháp công trình; đòi hỏi chi phí đầu tư, kỹ thuật và công nghệ để khai thác, lưu trữ, xử lý, cấp nước và vận hành hiệu quả. Quản lý cầu nước đô thị bao gồm các biện pháp, chương trình, chính sách ưu đãi nhằm ngăn ngừa việc sử dụng lãng phí tài nguyên nước và thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả, tái sử dụng các nguồn cung cấp nước hiện có trong đô thị. Các nhà hoạch định chính sách tại các quốc gia đối mặt với tình trạng khan hiếm nguồn nước đã và đang tập trung nhiều hơn vào cách tiếp cận về quản lý cầu nước.
Kinh nghiệm của một số quốc gia trong quản lý nhu cầu sử dụng nước sạch
Công cụ kinh tế trong quản lý nhu cầu nước sinh hoạt đô thị tại Mỹ: Nhằm quản lý cầu nước sinh hoạt đô thị, một số công cụ kinh tế điển hình đã được áp dụng tại Mỹ như lắp đồng hồ nước; chính sách về giá nước; ưu đãi từ các chương trình tiết kiệm và sử dụng hiệu quả TNN; chính sách giảm giá khi mua sắm các thiết bị tiết kiệm nước (TKN) và thị trường mua bán nước.
Tại Mỹ, tính đến năm 2017, 31/50 bang (62%) có lắp đặt đồng hồ nước trên mọi hệ thống đấu nối. Lắp đồng hồ và theo dõi lượng nước tiêu thụ được xem là cơ sở cho các chính sách về ưu đãi tài chính vì biện pháp này cung cấp thông tin về mức tiêu thụ TNN cho việc xây dựng cách tính giá nước và đánh giá, so sánh hiệu quả của các chính sách. Do đó, việc lắp đồng hồ nước thường được đưa vào các gói giải pháp về kinh tế; như tại các vùng chưa lắp đặt thiết bị này. Giải pháp này giúp giảm tiêu thụ TNN trong đô thị vì mức tiêu thụ có thể ảnh hưởng đến cách tính giá nước.
Ở cấp Tiểu bang, việc mua bán quyền sử dụng nước (SDN) cũng được xem là một trong những giải pháp quản lý cầu nước. 3 hệ thống về quyền dùng nước song song tồn tại tại quốc gia này, bao gồm: Quyền của hộ ở ven sông được áp dụng tại các tiểu bang phía Đông nước Mỹ: Những hộ sở hữu đất và gần nguồn nước có quyền SDN; Quyền ưu tiên sử dụng: Những cá nhân/hộ SDN đến cư trú ở khu vực nào trước sẽ có quyền SDN trước và sử dụng cho mục đích có lợi. Quyền SDN này thường được áp dụng tại các tiểu bang miền Tây nước Mỹ, nơi có tình trạng khô hạn hoặc bán khô hạn và thiếu nước hơn miền Đông.
Công cụ kỹ thuật trong quản lý nhu cầu nước sinh hoạt đô thị tại Hàn Quốc: Hàn Quốc đã thiết lập hệ thống quản lý nước thông minh, phát hiện điểm rò rỉ ở hai thành phố Paju và Seosan với mô hình Smart Water City (SWC) có tích hợp hệ thống công nghệ thông tin vào hệ thống cấp nước. Người dân có thể kiểm tra chất lượng nước dựa trên mã hiệu về chất lượng và ứng dụng trên điện thoại. Cán bộ phụ trách có thể đến kiểm tra chất lượng nước máy và dịch vụ water-doctor, theo đó các cán bộ kỹ thuật có thể kiểm tra chất lượng đường ống nước trong nhà và làm sạch đường ống. Nhờ vậy, mức phàn nàn của người dân giảm từ 4.5 xuống 1.3 trường hợp/tháng; mức độ hài lòng của người dân tăng lên đáng kể.
Tại Seosan đã ứng dụng Mạng lưới cấp nước thông minh (SWG), đô thị SDN thông minh (SWC); hệ thống dự báo tổng hợp chất lượng nước (SUIRAN); hệ thống quản lý tổng hợp TNN (K-HIT). K-water đồng thời cũng đưa vào hệ thống theo dõi đồng hồ nước thông minh nhằm phân tích lượng nước sử dụng, lưu lượng bất thường và các điểm rò rỉ; cung cấp thông tin cho khách hàng thông qua internet và ứng dụng trên điện thoại. Lưu lượng và áp lực nước được theo dõi bằng hệ thống theo dõi ở phạm vi khu vực cấp Quận. Việc theo dõi lưu lượng nước theo ngày cho phép hệ thống xác định được các điểm rò rỉ - lập tức phát hiện và giảm các điểm rò rỉ hoặc vỡ ống, từ đó giảm lượng nước thất thoát. Tỷ lệ NRW của khu vực Chari, TP. Seosan giảm từ 32% xuống 10% sau khi lắp đặt hệ thống theo dõi SDMA. Hệ thống theo dõi rò rỉ còn có chức năng cảnh bảo những điểm rò rỉ để kiểm tra và khắc phục ngay khi phát hiện ra. Nhờ đó, lượng nước tiêu thụ của các hộ dân cư tại Chari giảm 55%, giúp giảm chi phí hóa đơn tiền nước đến 70%. Sau 2 tháng áp dụng hệ thống, ước tính lợi ích tối thiểu là 610 triệu won trong vòng 8 năm tiếp theo (tỷ lệ lợi ích/chi phí là 2.1); giảm 20% tỷ lệ thất thoát (NRW) và tiết kiệm 190.000 m3/năm nhờ khắc phục rò rỉ. Không chỉ ở hai thành phố nói trên, để giảm thất thoát nước và tăng cường tính hiệu quả trong SDN, K-water cũng lắp đặt hệ thống quản lý mạng lưới cấp nước; khắc phục mạnh mẽ tình trạng xuống cấp của trang thiết bị cấp nước khi phân giao trách nhiệm cho 22 công ty cấp nước địa phương vận hành hệ thống từ năm 2004.
Khuyến khích và bắt buộc lắp đặt các thiết bị TKN tại toàn bộ các phòng WC công cộng và khu thể thao. Các bồn vệ sinh dung tích 13 l/lần xả được thay thế bằng bồn với dung tích nhỏ hơn 5 l/lần xả. Biện pháp này nhằm giảm 37 m3 nước/hộ gia đình/năm. Nếu 5% số hộ thay thế thiết bị cũ bằng thiết bị TKN, trung bình 31.34 triệu m3 nước/năm sẽ được tiết kiệm.
Khuyến khích và thúc đẩy tái SDN thải đã qua xử lý, thu hồi nước mưa: Đưa vào sử dụng hệ thống xử lý, tái chế, tái SDN thải. Tại Seoul, các hệ thống tái SDN đã được triển khai từ năm 2011. Thành phố đã xây dựng kế hoạch cơ bản về quản lý nước từ năm 2013 và các dự án để thu và SDN mưa từ 2013 đến nay.
Công cụ truyền thông và thông tin trong quản lý nhu cầu nước sinh hoạt đô thị tại Singapore: Chính phủ Singapore đã thực hiện rất nhiều chiến dịch truyền thông nhằm nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về SDN. Ban quản lý công trình công cộng - Public Utilities Board (PUB) phát động chiến dịch “Nước là quý giá” lần 1 năm 1972 nhằm nhắc nhở cộng đồng về tầm quan trọng của TKN. Các hoạt động được tổ chức cho cộng đồng nhằm cung cấp những thông tin về những điều nên và không nên để bảo tồn TNN. Chiến dịch này giúp giảm tiêu thụ nước đến 4.9%.
Năm 1987, Chính phủ Singapore đưa nội dung về bảo tồn TNN vào chương trình giáo dục phổ thông cơ sở để nâng cao nhận thức của học sinh về tình hình khan hiếm nước quốc gia này phải đối mặt. Các bộ giáo cụ được phân phát cho các trường để hỗ trợ cho công tác giảng dạy và duy trì nội dung này trong suốt những năm 1990 và sau đó. Cũng trong thời gian này, một đợt nắng hạn bất thường ở Singapore đã khiến quốc gia này phải đưa ra yêu cầu cắt giảm 10% nhu cầu SDN không cần thiết và duy trì lượng nước dự trữ trong các hồ chứa. Các chiến dịch truyền thông được diễn ra sâu rộng và chỉ sau 1 tháng lượng nước tiêu thụ hàng ngày giảm 11.2%.
Báo chí được xem là nhân tố bảo đảm thành công cho các chiến dịch này khi các cơ quan này liên tục truyền đi những câu chuyện về hạn hán và cắt giảm lượng nước sử dụng trong những năm 1960, nhắc nhở cộng đồng về thời điểm khan hiếm nước và thúc đẩy người dân chống lãng phí nước.
PUB đã phát động chương trình các hộ gia đình TKN từ năm 2003 nhằm thay đổi hành vi SDN ở cấp cộng đồng. Các bộ công cụ TKN được phân phát cho các tổ chức tại cộng đồng, cấp miễn phí cho các hộ gia đình. Bộ kit bao gồm bộ kiểm soát lưu lượng vòi nước, TKN từ bể chứa, tờ rơi và các hướng dẫn TKN. Cùng với Ủy Ban Môi trường Singapore, PUB đã lập một website về TKN. Người dùng được yêu cầu đánh giá lượng nước tiêu thụ của họ và xác định những khả năng cải thiện. Thông qua chương trình nước sạch-cảnh quan đẹp, người dân Sinagpore được khuyến khích chịu trách nhiệm cho khu vực nước xung quanh mình. Các trường học và cộng đồng tích cực tham gia vào chương trình này và khuyến khích học sinh, người dân cùng tham gia. Lợi ích chương trình đem lại là tăng cường chất lượng nước và bảo vệ nguồn nước có sự tham gia của cộng đồng; cộng đồng cũng trở nên hiểu biết hơn về giá trị của nguồn nước. PUB cũng thiết lập một đường dây nóng 24/7 để giải quyết phàn nàn và khiếu nại của người dân trong 45 phút sau khi nhận cuộc gọi. Khách hàng có thể liên hệ với PUB thông qua điện thoại, fax, email và web chat.
Một sáng kiến khác của Chính phủ Singapore được thực hiện từ năm 2006, đó là Chương trình trữ Nước sạch, Đẹp cảnh quan và chủ động (nguồn nước). Theo đó, các thủy vực, khu chứa nước được tích hợp với các công viên để tạo ra các không gian xanh và mới trong cộng đồng. Dự án bao gồm xanh hóa các kênh bê tông, xây dựng các vùng đất ngập nước dạng nổi, cung cấp cơ sở hạ tầng cho các môn thể thao dưới nước tại các hồ chứa. Khoảng 100 dự án đã được xác định tại thành phố này, trong đó khoảng 30 dự án đã được hoàn thành. Chương trình ABC Water còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra quyền đồng sở hữu về nước; thúc đẩy sự tham gia giám sát và bảo vệ TNN và cảnh quan môi trường trong cộng đồng.
Năm 2006, PUB khởi động chiến dịch “Thử thách 10 lít” nhằm mục tiêu giảm 10 lít nước tiêu thụ/ngày/người. Theo đó, chiến dịch bao gồm việc xây dựng một cổng thông tin một cửa về TKN; thành lập nhóm tình nguyện viên về nước; Chương trình dán nhãn TKN (WELS) tự nguyện; tăng cường sử dụng các thiết bị TKN tại các khu dân cư. Chương trình WELS cung cấp thông tin về mức nước tiêu thụ và hiệu quả SDN của thiết bị, từ đó, khách hàng có thể lựa chọn khi mua sắm các sản phẩm và thiết bị về nước (PUB 2008). Đây là tiền đề để Chính phủ Singapore đưa vào áp dụng hệ thống nhãn bắt buộc về hiệu quả SDN (Mandatory Water Efficiency Labelling Scheme - MWELS) vào năm 2009 như đã nêu ở trên.
Bên cạnh những chiến dịch như trên, Singapore còn tổ chức các tuần lễ về bảo tồn TNN, thành lập các trung tâm học tập cho học sinh sinh viên về TNN và thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng trong các chiến dịch này. Sự tham gia của cộng đồng được xem là nhân tố quyết định thành công trong việc giảm cầu nước sinh hoạt đô thị từ 165 l/người/ngày của năm 2003 xuống 156 l/người/ngày của năm 2008. PUB lên kế hoạch tiếp tục giảm mức tiêu thụ xuống 140 l/người/ngày vào năm 2030.
Khuyến nghị cho Việt Nam
Xây dựng khung chính sách cụ thể về quản lý nhu cầu nước sinh hoạt đô thị, trong đó có kết hợp các giải pháp về quy định pháp lý bắt buộc, công cụ kinh tế, kỹ thuật và truyền thông. Nên chuyển dịch từ khuyến khích sang bắt buộc áp dụng hệ thống dán nhãn và tiêu chuẩn đối với các sản phẩm, thiết bị SDN tiết kiệm; việc xây dựng cách tính giá nước cần xét đến bối cảnh về kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam. Áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý và theo dõi lượng nước tiêu thụ, phát hiện điểm rò rỉ của Hàn Quốc là một trong những mô hình đáng học tập. Với các khu đô thị có điều kiện về KT-XH, cơ sở hạ tầng phù hợp, các chương trình theo dõi kiểm soát lượng tiêu thụ và thất thoát này nên được cân nhắc, nghiên cứu và áp dụng; các giải pháp xử lý, tuần hoàn, tái SDN thải làm nước tưới hoặc nước cho các mục đích không phải ăn uống trong đô thị cũng là một giải pháp đáng đầu tư nghiên cứu và phát triển; các chiến dịch truyền thông có thể học tập mô hình của Singapore, các nội dung truyền thông cần được lồng ghép vào chương trình giáo dục cho trẻ em từ cấp tiểu học để sớm hình thành ý thức bảo vệ TNN.
ThS. NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH
Vụ Pháp Chế
ThS. LƯƠNG THỊ THÙY LINH
Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và môi trường