Kinh tế biển chỉ bền vững khi bảo tồn hiệu quả

Thứ năm, 18/12/2025, 10:21 (GMT+7)
logo "Nếu không bảo tồn hiệu quả, không thể có nền kinh tế biển bền vững" - đó là khẳng định của bà Bùi Thị Thu Hiền, Quản lý Chương trình Biển và Vùng bờ - Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) tại tham luận “Đầu tư vào nguồn vốn thiên nhiên – khu bảo tồn biển, OECMs – Hướng tới nền kinh tế tích cực với thiên nhiên”, trình bày trong Diễn đàn “Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên biển và hải đảo Việt Nam”, do Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị tổ chức ngày 17/12/2025.

Hướng tới nền kinh tế tích cực với thiên nhiên

Trong vòng 10 năm tới, sự suy giảm đa dạng sinh học và nguy cơ sụp đổ các hệ sinh thái được dự báo sẽ trở thành một trong những rủi ro lớn nhất đối với nền kinh tế toàn cầu, tài nguyên thiên nhiên và phúc lợi con người. Thế giới đang phải đối mặt với “cuộc khủng hoảng hành tinh 3 tầng” gồm suy giảm đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu và ô nhiễm. Những yếu tố đang gây sức ép chưa từng có lên sự cân bằng mong manh của các hệ sinh thái, đặc biệt là đại dương (IUCN, 2025).

Một nền kinh tế tích cực với thiên nhiên là nền kinh tế dựa trên các hệ sinh thái khỏe mạnh, nơi các hoạt động phát triển không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực mà còn đóng góp tích cực cho phục hồi tự nhiên. Điều này đặc biệt đúng với môi trường biển và đại dương, nơi cung cấp các dịch vụ hệ sinh thái thiết yếu cho khí hậu, sinh kế và an ninh lương thực toàn cầu.

bien1_1765964546.webp
Các đại biểu tham dự Diễn đàn “Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên biển và hải đảo Việt Nam”

Đối với đại dương, các khu bảo tồn biển, khu vực được bảo vệ và các khu vực có biện pháp bảo tồn hiệu quả khác (OECMs) chính là công cụ then chốt để bảo đảm, duy trì và phục hồi các hệ sinh thái. Đây cũng là trụ cột quan trọng để hiện thực hóa các mục tiêu Nature Positive (Tích cực với thiên nhiên) và mục tiêu toàn cầu 30x30 (bảo tồn 30% đất liền và đại dương vào năm 2030).

Việc bảo tồn loài và các hệ sinh thái biển đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi đại dương chứa khoảng 95% sự sống trên hành tinh, hấp thụ 93% lượng nhiệt dư thừa và khoảng 30% lượng khí CO₂ do con người tạo ra. Không chỉ vậy, đại dương còn tạo ra hơn 50% lượng oxy mà con người hít thở mỗi ngày.

Các hệ sinh thái ven biển như rừng ngập mặn, đóng góp quan trọng trong sinh kế của hơn 120 triệu người trên toàn cầu, đồng thời là “bể chứa carbon xanh” với khả năng lưu trữ lượng carbon gấp 3-5 đến năm lần so với rừng nhiệt đới trên đất liền tính trên cùng một đơn vị diện tích.

Theo Báo cáo Xu hướng ESG 2023, chương trình nghị sự kinh doanh vì phát triển bền vững trong những thập kỷ tới xoay quanh ba mục tiêu then chốt: Trở nên tích cực với thiên nhiên vào năm 2030; phục hồi hoàn toàn đa dạng sinh học vào năm 2050; giảm phát thải khí nhà kính và đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050, nhằm hạn chế mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở 1,5°C vào cuối thế kỷ.

bien2_1765964553.webp
Bà Bùi Thị Thu Hiền, Quản lý Chương trình Biển và Vùng bờ - Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phát biểu tham luận tại Diễn đàn

Điều này cho thấy bảo tồn và phục hồi thiên nhiên không còn là vấn đề môi trường đơn thuần, mà là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế bền vững, ổn định tài chính và khả năng chống chịu của xã hội.

Hướng tới một môi trường sinh thái bền vững, Việt Nam đã thể hiện cam kết rõ ràng trong ứng phó với biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường. Quốc gia đặt mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, loại bỏ dần nhiệt điện than, chấm dứt nạn phá rừng vào năm 2030 và giảm mạnh phát thải khí nhà kính. Việt Nam cũng là một trong 12 quốc gia hoàn thành cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào ngày 11/9/2020.

Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu này, việc bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên, đặc biệt là hệ sinh thái biển và ven biển đóng vai trò then chốt.

Theo Báo cáo Protected Planet 2025 (tháng 11/2025), toàn cầu hiện có 303.772 khu bảo tồn và 6.595 OECMs; 22,06 triệu km² đất liền và nội thủy được bảo vệ, cùng 1,59 triệu km² OECMs trên đất liền, chiếm 17,58%; 34,89 triệu km² diện tích biển được bảo vệ thông qua các khu bảo tồn và OECMs, tương đương 9,61% diện tích đại dương.

Trong khi đó, tại Việt Nam, diện tích biển được bảo vệ hiện vẫn chưa đến 0,6%, và khoảng 7% diện tích đất liền nằm trong các khu bảo tồn, vườn quốc gia và khu dự trữ sinh cảnh, với tổng diện tích khoảng 2,6 triệu ha. Việt Nam đặt mục tiêu nâng diện tích khu vực được bảo vệ lên 6% vào năm 2030, trong khi cộng đồng quốc tế đang hướng tới mục tiêu bảo tồn 30% đại dương vào năm 2030 thông qua việc xây dựng một mạng lưới toàn cầu các khu bảo tồn biển.

Các nỗ lực bảo tồn hiện nay gắn chặt với Khung Đa dạng sinh học Toàn cầu (GBF), trong đó các cam kết liên quan đến hệ sinh thái biển, đại dương tập trung vào các mục tiêu: Phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái; bảo tồn hiệu quả 30% diện tích đất liền và biển vào năm 2030; sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là nguồn lợi thủy sản.

biena_1765964559.webp
Bảng tổng hợp diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia được khoanh vùng bảo vệ nguồn lợi và thành lập các khu bảo tồn biển

Trong bối cảnh đó, các khu bảo tồn, khu vực được bảo vệ và OECMs chính là trụ cột quan trọng để hiện thực hóa các cam kết toàn cầu, đồng thời mở ra con đường phát triển kinh tế gắn với bảo vệ và phục hồi thiên nhiên – nền tảng cho một tương lai thịnh vượng và bền vững.

Phát huy vai trò của các công cụ bảo tồn thiên nhiên 

Trong bối cảnh suy giảm đa dạng sinh học, biến đổi khí hậu và gia tăng áp lực khai thác tài nguyên biển, các Khu bảo tồn biển (KBTB), Khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản (BVNLTS) và các Khu vực có biện pháp bảo tồn hiệu quả khác (OECMs) đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên biển. Đây không chỉ là công cụ bảo tồn thiên nhiên mà còn là nền tảng cho phát triển kinh tế biển bền vững và thực hiện các cam kết quốc gia, toàn cầu.

Các KBTB, Khu BVNLTS và OECMs đóng vai trò quan trọng trong bảo tồn & phục hồi đa dạng sinh học; tăng nguồn lợi thủy sản; tăng khả năng chống chịu khí hậu; duy trì dịch vụ hệ sinh thái; thúc đẩy kinh tế biển bền vững; củng cố quản trị tài nguyên; góp phần đạt mục tiêu toàn cầu (GBF/30x30).

bien4_1765964593.webp
Bảo tồn loài và các hệ sinh thái biển đóng vai trò hết sức quan trọng trong quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên biển

Một trong những vai trò quan trọng nhất của KBTB, Khu BVNLTS và OECMs là bảo vệ các sinh cảnh then chốt như rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn. Đây là nơi cư trú, sinh sản và kiếm ăn của nhiều loài sinh vật biển có giá trị sinh thái và kinh tế cao.

Việc thiết lập và quản lý hiệu quả các khu vực này giúp phục hồi quần thể loài, giảm tốc độ suy thoái hệ sinh thái và tăng khả năng tự phục hồi của đại dương trước các tác động từ con người và biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, các khu vực được bảo vệ đóng vai trò như “vườn ươm tự nhiên”, tạo điều kiện an toàn cho các loài thủy sản sinh sản và phát triển. Khi quần thể loài được phục hồi trong các khu bảo vệ, hiện tượng “hiệu ứng tràn” sẽ xảy ra, giúp gia tăng sản lượng khai thác ở các vùng biển lân cận. Điều này không chỉ góp phần phục hồi nguồn lợi thủy sản mà còn hỗ trợ sinh kế lâu dài cho cộng đồng ngư dân ven biển, giảm áp lực khai thác quá mức và xung đột tài nguyên.

Không những thế, các khu bảo tồn biển, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản và OECMs còn tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu. Các hệ sinh thái biển và ven biển như rừng ngập mặn, cỏ biển và rạn san hô đóng vai trò như lá chắn tự nhiên, giúp giảm thiểu rủi ro từ bão, xói lở bờ biển và nước biển dâng. Đồng thời, đây cũng là những bể chứa carbon xanh có khả năng hấp thụ và lưu trữ lượng lớn khí carbon, góp phần quan trọng vào nỗ lực giảm phát thải khí nhà kính.

Đồng thời, đây cũng là nền tảng cho các mô hình du lịch sinh thái, thủy sản bền vững và kinh tế xanh. Khi được quản lý hiệu quả, các khu vực này tạo ra nguồn thu ổn định, đa dạng hóa sinh kế và giảm sự phụ thuộc vào khai thác tài nguyên ngắn hạn. Việc gắn bảo tồn với phát triển kinh tế giúp hình thành chuỗi giá trị biển bền vững, mang lại lợi ích lâu dài cho cả môi trường và con người.

Để phát huy hiệu quả của KBTB, Khu BVNLTS và OECMs, cần lồng ghép cách tiếp cận Nature Positive – Tích cực với thiên nhiên vào quy hoạch biển. Trước hết là đánh giá vốn tự nhiên và dịch vụ hệ sinh thái, lập bản đồ các hệ sinh thái quan trọng như rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn và xác định giá trị kinh tế – sinh thái, đặc biệt là khả năng hấp thụ carbon.

Các khu vực ưu tiên cần được tích hợp vào Quy hoạch không gian biển (MSP), kèm theo việc thiết lập vùng đệm và vùng hạn chế khai thác nhằm bảo vệ các hệ sinh thái nhạy cảm. Song song đó là thiết kế các cơ chế sử dụng biển bền vững, khuyến khích hạn ngạch khai thác, mô hình đồng quản lý và giảm áp lực từ các ngành kinh tế.

bien5_1765964599.webp
Để phát huy hiệu quả của KBTB, Khu BVNLTS và OECMs cần lồng ghép cách tiếp cận Nature Positive – Tích cực với thiên nhiên vào quy hoạch biển

Cuối cùng, việc đảm bảo lợi ích và tăng cường sự tham gia của cộng đồng ven biển là yếu tố then chốt, được thực hiện thông qua tham vấn, đồng quản lý, tạo sinh kế bền vững và hỗ trợ cộng đồng tham gia giám sát, bảo vệ các khu bảo tồn và khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản.

Để xây dựng một nền kinh tế tích cực với thiên nhiên, cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò lãnh đạo và định hướng. Trước hết, Nhà nước cần thiết lập khung pháp lý, tiêu chuẩn và lộ trình chuyển đổi rõ ràng, tạo nền tảng cho các chủ thể kinh tế hành động thống nhất và hiệu quả.

Song song đó, cần thúc đẩy các cơ chế khuyến khích và tài chính xanh, bao gồm ưu đãi đầu tư, cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái và huy động nguồn lực tư nhân cho bảo tồn và phục hồi thiên nhiên. Những công cụ này không chỉ giảm rủi ro cho doanh nghiệp khi chuyển đổi mô hình, mà còn tạo động lực để khu vực tư nhân đầu tư dài hạn vào tự nhiên.

Nền kinh tế tích cực với thiên nhiên đòi hỏi sự đồng hành của doanh nghiệp và Nhà nước nhằm giảm suy thoái hệ sinh thái, nâng cao khả năng phục hồi của thiên nhiên và tạo ra giá trị bền vững trong dài hạn. Phát triển kinh tế không thể tiếp tục đánh đổi bằng mất mát tài nguyên, mà cần gắn chặt với phục hồi và bảo vệ các hệ sinh thái nền tảng.

“Quá trình này dựa trên hai trụ cột chính: Nature-Positive Business: Doanh nghiệp đổi mới mô hình kinh doanh, giảm tác động tiêu cực, chủ động đầu tư vào bảo tồn và phục hồi thiên nhiên; Nature-Positive Governance: Cơ quan quản lý thiết lập quy định, khung khuyến khích và cơ chế hợp tác, đóng vai trò dẫn dắt và điều phối quá trình chuyển đổi. Hai trụ cột này bổ trợ lẫn nhau, tạo nên hệ sinh thái chính sách – thị trường thuận lợi cho phát triển bền vững”, bà Bùi Thị Thu Hiền khẳng định.

Để chuyển đổi thành công sang nền kinh tế tích cực với thiên nhiên, Việt Nam cần tăng cường hợp tác đa bên, chia sẻ dữ liệu và phát triển các nguồn tài chính bền vững. Sự kết nối giữa khu vực công – tư, khoa học – chính sách và trong nước – quốc tế sẽ tạo ra các giải pháp tổng thể và hiệu quả hơn.

Qua tham luận, bà Bùi Thị Thu Hiền, Quản lý Chương trình Biển và Vùng bờ - IUCN hướng đến thông điệp cốt lõi: Nền kinh tế tích cực với thiên nhiên là xu thế toàn cầu mà Việt Nam cần chủ động chuẩn bị và tham gia; bảo tồn và phục hồi thiên nhiên chính là đầu tư cho tăng trưởng dài hạn; và chỉ khi quản lý hiệu quả, hợp tác rộng mở và huy động được nguồn lực bền vững, quá trình chuyển đổi này mới thực sự tạo ra đột phá.

Bùi Ánh