Kỳ 3: Chuẩn nghèo 2026- 2030 trong bối cảnh tăng trưởng xanh - Yêu cầu đặt ra từ thực tiễn

Chủ nhật, 7/12/2025, 21:22 (GMT+7)
logo Giai đoạn 2021-2025 chứng kiến những bước tiến rất lớn trong giảm nghèo đa chiều và phát triển nông thôn mới. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo dự kiến cuối năm 2025 giảm còn 52,49% so với đầu kỳ, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt; hạ tầng, sinh kế, dịch vụ xã hội cơ bản đều có bước chuyển mạnh mẽ. Bối cảnh phát triển mới, với yêu cầu tăng trưởng xanh, phát triển bao trùm và thích ứng khí hậu đang đặt ra những tiêu chí mới cho chuẩn nghèo giai đoạn 2026- 2030. Việc cập nhật chuẩn nghèo vì vậy không chỉ là yêu cầu kỹ thuật định kỳ, mà còn nhằm bảo đảm công cụ đo lường phù hợp thực tiễn và định hướng phát triển bền vững trong thập kỷ tới.
mua-vang-ruc-ro-tren-nhung-thua-ruong-bac-thang-o-mu-cang-chai-16-17294984063331911905453-17645808496692136704480_1765105730.webp
Thu hoạch lúa trên ruộng bậc thang của đồng bào miền núi. Việc nâng cao năng suất, ổn định sinh kế và thích ứng khí hậu là yếu tố then chốt trong giảm nghèo bền vững ở khu vực này.

Cơ sở thực tiễn từ giai đoạn 2021-2025: Những thay đổi quan trọng cần ghi nhận

Theo báo cáo tổng kết của 02 Chương trình Mục tiêu Quốc gia (Nông thôn mới và giảm nghèo bền vững) cho thấy một bức tranh phát triển đồng bộ. Tỷ lệ hộ nghèo giảm ổn định và vượt mục tiêu, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm bình quân 1,03%/năm, đạt chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ giao; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4,45%/năm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo dự kiến cuối năm 2025 giảm xuống 1,256 triệu hộ, đạt 52,49% mục tiêu giảm một nửa so với đầu kỳ.
Năng lực tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản được cải thiện mạnh mẽ. Các chương trình hạ tầng thiết yếu, y tế, giáo dục, nước sạch, thông tin, dinh dưỡng… đã được triển khai với quy mô lớn: Gần 2.600 công trình hạ tầng được đầu tư tại các địa bàn nghèo. Hơn 205.000 hộ dân tham gia mô hình sinh kế; 1,4 triệu lượt phụ nữ và trẻ em được hỗ trợ dinh dưỡng; 177.767 lao động nghèo, cận nghèo được đào tạo nghề; 134.000 lao động được kết nối việc làm thành công.
Chi phí sinh hoạt tối thiểu và cấu trúc chi tiêu hộ gia đình thay đổi rõ rệt. Dữ liệu thu nhập cho thấy: Thu nhập bình quân khu vực nông thôn năm 2024 đạt 54 triệu đồng/người/năm, dự kiến năm 2025 đạt 58 triệu đồng/người/năm. Mức sống tối thiểu đã thay đổi đáng kể, đặc biệt tại các đô thị và khu vực chịu tác động khí hậu.

Yêu cầu tăng trưởng xanh và thích ứng khí hậu trở thành trọng tâm chính sách

Thiết nghĩ, giai đoạn tới, phát triển nông thôn, giảm nghèo, tăng trưởng xanh được đặt trong một khung thống nhất, tiết kiệm năng lượng, sử dụng nước sạch bền vững, tiếp cận hạ tầng chống chịu khí hậu, chuyển dịch sang sinh kế xanh… Những biến động này đòi hỏi chuẩn nghèo phải được cập nhật tương thích để phản ánh đúng mức sống và khả năng chống chịu của hộ dân.

Cần cập nhật chuẩn nghèo 2026-2030 vì mức sống tối thiểu tăng và khác biệt vùng miền ngày càng rõ. Vì vậy, thu nhập và chi tiêu thiết yếu biến đổi theo vùng miền, theo đô thị - nông thôn và theo chi phí sinh hoạt khu vực tăng mạnh những năm gần đây. Chuẩn nghèo mới cần phản ánh tốt hơn: sự khác biệt về chi phí nhà ở, y tế, năng lượng; nhu cầu triển khai chuyển đổi số; yêu cầu hội nhập thị trường lao động mới.

Năng lực chống chịu khí hậu trở thành một điểm quan trọng của nghèo đa chiều. Các vùng miền núi, ven biển, hải đảo đang chịu tác động nặng nề của thiên tai, xâm nhập mặn, sạt lở, hạn hán. Khả năng tiếp cận: nước sạch ổn định, hạ tầng an toàn, năng lượng sạch, sinh kế thích ứng… trở thành yếu tố then chốt quyết định nguy cơ tái nghèo.

Thị trường lao động thay đổi, đòi hỏi năng lực mới. Số lượng lao động nghèo được đào tạo nghề và kết nối việc làm tăng mạnh, cho thấy nhu cầu đưa các chỉ báo về kỹ năng số, khả năng chuyển đổi nghề, cơ hội tiếp cận thị trường lao động bền vững vào trong thang đo nghèo.

Xu hướng quốc tế hướng tới "nghèo về khả năng". Nhiều quốc gia đang bổ sung yếu tố môi trường, năng lực tham gia kinh tế xanh, tiếp cận hạ tầng số, điều kiện khí hậu an toàn như các thành tố đo lường nghèo đa chiều.

image001_ff061796_1765105809.webp
Khu dân cư bị ngập lụt và sạt lở nghiêm trọng sau mưa bão. Thiên tai cực đoan đang gây ra nhiều thiệt hại về hạ tầng và sinh kế tại các địa bàn dễ tổn thương.

Đôi điều gợi ý để tiếp tục hoàn thiện chuẩn nghèo 2026- 2030

Điều chỉnh ngưỡng thu nhập phù hợp mức sống tối thiểu mới. Dựa trên dữ liệu khảo sát mức sống, cần tính toán lại chi phí sinh hoạt thiết yếu theo vùng miền, phản ánh đúng chi phí nhà ở, chăm sóc sức khỏe, năng lượng và chi phí liên quan khí hậu.

Bổ sung nhóm chỉ báo gắn với tăng trưởng xanh và môi trường. Có thể xem xét đưa vào chuẩn nghèo các chỉ báo mới như: mức độ tiếp cận năng lượng sạch, khả năng sử dụng nước bền vững, vị trí nhà ở trong vùng rủi ro khí hậu, mức độ tổn thương sinh kế trước thiên tai.

Tăng trọng số cho khả năng chống chịu rủi ro. Từ kinh nghiệm BĐKH giai đoạn vừa qua, chuẩn nghèo có thể bổ sung đánh giá: khả năng dự phòng, độ an toàn của nhà ở, mức độ phụ thuộc vào sinh kế dễ tổn thương.

Đưa chuyển đổi số và kỹ năng mới vào đánh giá thiếu hụt dịch vụ xã hội. Phù hợp mục tiêu đến 2030 của Chương trình: chuyển đổi số trong dịch vụ công, thị trường lao động số hóa, yêu cầu kỹ năng số tối thiểu của người lao động nông thôn.

Tăng cường tích hợp dữ liệu đa ngành. Để chuẩn nghèo mới sát thực hơn, cần liên kết dữ liệu: dân cư, việc làm, thiên tai - khí hậu, giáo dục - y tế. Điều này phù hợp với định hướng tăng cường chuyển đổi số và quản trị đa mục tiêu mà chương trình giai đoạn 2026- 2030 đặt ra.

Chuẩn nghèo là công cụ quan trọng để định hướng chính sách an sinh và đầu tư xã hội. Trong bối cảnh tăng trưởng xanh, chuyển đổi số và tác động ngày càng phức tạp của khí hậu, việc cập nhật chuẩn nghèo giai đoạn 2026- 2030 là bước đi cần thiết nhằm: phản ánh đúng mức sống tối thiểu và nhu cầu thiết yếu mới của hộ dân, giúp nhận diện nhóm dễ bị tổn thương một cách chính xác hơn, tạo nền tảng cho chính sách giảm nghèo bao trùm và bền vững, hỗ trợ người dân chủ động tham gia vào quá trình phát triển xanh của đất nước.

Diệp Anh