Quốc hội yêu cầu đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và tổ chức thực thi quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả; loại bỏ quan điểm “Bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”; tiếp tục hoàn thiện nhóm chỉ tiêu về môi trường, trong đó chú trọng cơ chế giao chỉ tiêu thực hiện cụ thể cho các địa phương gắn với cơ chế đánh giá trách nhiệm hoàn thành của người đứng đầu.
Sáng 10/12, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường với tỷ lệ 442/444 tổng số ĐBQH có mặt tán thành, đạt 99,54%.
Đánh giá việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực, Nghị quyết nêu rõ, Quốc hội cơ bản tán thành nội dung Báo cáo số 756/BC-ĐGS ngày 26/10/2025 của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành với những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập và nguyên nhân chủ yếu.
Thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi xanh
Để phát huy kết quả đạt được, khắc phục những hạn chế, bất cập, thích ứng kịp thời với bối cảnh trong giai đoạn mới, Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, nghiên cứu, thực hiện các kiến nghị của Đoàn giám sát tại Báo cáo số 756/BC-ĐGS và tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp.
Cụ thể là, đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và tổ chức thực thi quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả; loại bỏ quan điểm “Bảo vệ môi trường sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế”; tiếp tục hoàn thiện nhóm chỉ tiêu về môi trường, trong đó chú trọng cơ chế giao chỉ tiêu thực hiện cụ thể cho các địa phương gắn với cơ chế đánh giá trách nhiệm hoàn thành của người đứng đầu; bổ sung chỉ tiêu về tăng trưởng carbon thấp vào hệ thống chỉ tiêu phát triển quốc gia và trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, hàng năm phù hợp với yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn.
Thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, coi chất thải là tài nguyên và được quản lý trên môi trường số; thực hiện chuyển đổi xanh thông qua các cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu, phát triển công nghệ thân thiện với môi trường, công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, mua sắm xanh, năng lượng tái tạo; chủ động xây dựng thể chế để thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Kinh tế hóa môi trường, trong đó thiết lập cơ chế định giá tài nguyên, chi trả dịch vụ hệ sinh thái và nâng cao hiệu quả của công cụ thuế môi trường, phí môi trường, hạn ngạch phát thải; áp dụng triệt để nguyên tắc “Người được hưởng lợi từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ môi trường; người gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, bồi thường thiệt hại, khắc phục, xử lý”.
Tiếp tục đẩy mạnh phương thức quản lý nhà nước từ tiền kiểm sang hậu kiểm gắn với xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn để quản lý và tăng cường kiểm tra, giám sát; cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính; phân cấp, phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương theo nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”.
Bên cạnh đó, tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường. Chú trọng đầu tư phát triển các công trình bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Ưu tiên nguồn lực từ ngân sách và nguồn lực xã hội hóa cho bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm xây dựng đồng bộ các công trình hạ tầng môi trường thiết yếu.
Bố trí đúng, đủ, quản lý có hiệu quả và tăng dần chi ngân sách cho bảo vệ môi trường tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm từ năm 2027 tỷ trọng ngân sách chi cho bảo vệ môi trường trong tổng chi ngân sách nhà nước tăng hơn so với năm 2025; phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương quyết định phân bổ nguồn lực cho bảo vệ môi trường.
Hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường; phát huy vai trò của các quỹ bảo vệ môi trường, huy động nguồn lực tư nhân thông qua các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh... để triển khai các dự án đầu tư xanh, dự án bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính.
Đa dạng hóa nguồn cung tín chỉ carbon trong và ngoài nước, trong đó ưu tiên cho phát triển thị trường trong nước. Khuyến khích phát triển các dự án tạo tín chỉ carbon trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, lâm nghiệp, nông nghiệp carbon thấp, xử lý chất thải, công nghiệp xanh, giao thông xanh, các công nghệ thu hồi, lưu giữ carbon. Thúc đẩy đầu tư theo cơ chế đối tác công - tư, phát triển các mô hình hợp tác đầu tư cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Khuyến khích các phong trào tự nguyện, mô hình điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường của doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư; thực hiện cơ chế huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư, người dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các bên liên quan thực hiện công tác bảo vệ môi trường, bảo đảm đơn giản, hiệu quả, thiết thực và có tính lan tỏa cao; hình thành thói quen, văn hóa môi trường trong xã hội.
Cùng với đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp đột phá mà Quốc hội quyết nghị là phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ chiến lược trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Xây dựng sàn giao dịch carbon trong nước; vận hành Hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon, thiết lập hệ thống báo cáo kiểm kê khí nhà kính trực tuyến phục vụ doanh nghiệp. Xây dựng và thực hiện các chương trình khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển các chuyên ngành khoa học mũi nhọn trong tái chế chất thải, sản xuất vật liệu thân thiện với môi trường. Nguồn lực ngân sách nhà nước phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được tổng hợp khi tính tỷ lệ % tổng chi ngân sách nhà nước cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số hằng năm.
Thực hiện ngay các biện pháp cấp bách ngăn chặn và khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí
Quốc hội cũng xác định rõ một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, hoàn thành đến cuối năm 2026. Trong đó, Quốc hội yêu cầu Chính phủ thực hiện tổng kết, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trình Quốc hội xem xét, thông qua vào đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI. Trước mắt, xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật tại Kỳ họp thứ 10 để góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 02 cấp; đồng thời sửa đổi quy định về lộ trình, thời gian áp dụng đối với chính sách về phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại hộ gia đình, cá nhân cho phù hợp với yêu cầu thực tế.
Đồng thời, tổ chức rà soát, đánh giá và cập nhật, điều chỉnh trong trường hợp cần thiết các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để đáp ứng yêu cầu “mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới”.
Trong đó, chú trọng việc đánh giá, dự báo các tác động của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn, thiên tai, đặc biệt tại các địa bàn nhạy cảm như tại một số đô thị lớn (các thành phố: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…), đồng bằng sông Cửu Long, vùng ven biển. Tăng trưởng kinh tế 2 con số trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc xuyên suốt không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế đơn thuần, tôn trọng quy luật tự nhiên.
Quốc hội cũng yêu cầu Chính phủ ban hành và triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động quốc gia về khắc phục ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường không khí giai đoạn 2025 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đồng thời thực hiện ngay các biện pháp cấp bách kiểm soát, ngăn chặn và khắc phục, cải thiện tình trạng ô nhiễm không khí tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Hoàn thành việc đánh giá khả năng chịu tải và công bố kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt một số lưu vực sông liên tỉnh có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội; cải thiện chất lượng môi trường một số đoạn sông bị ô nhiễm nghiêm trọng trên các sông: Ngũ Huyện Khê, Tô Lịch, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải.
Thiết lập và vận hành sàn giao dịch carbon trong nước; hoàn thiện các quy định pháp lý về trao đổi kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon với quốc tế, làm cơ sở triển khai hợp tác trao đổi kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon với các đối tác quốc tế; quy định tỷ lệ kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, lượng tín chỉ carbon tối thiểu được giữ lại để thực hiện mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) khi trao đổi, chuyển giao ra quốc tế phù hợp với từng giai đoạn và tình hình thực tế trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia.
Quốc hội cũng đề ra các nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2030 và các năm tiếp theo. Theo đó, Quốc hội yêu cầu Chính phủ phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường; dự báo sớm tác động của biến đổi khí hậu; khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác ứng phó với biến đổi khí hậu; nâng cao hiệu quả tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng cường nguồn lực và hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.