
Vấn nạn ô nhiễm nilong làng nghề
Hiện nay, trên địa bàn Phong Khê có hơn 300 cơ sở với gần 334 dây chuyền sản xuất, nhiều gia đình có đến 2,3 dây chuyền sản xuất giấy. Trung bình năm cụm công nghiệp (CCN) làng nghề sản xuất được 40 – 50 nghìn tấn giấy thành phẩm các loại, trong đó giấy kráp vẫn là chủ lực, chiếm 70%, doanh thu đạt 120 tỷ đồng.
Tổng lượng chất thải rắn phát sinh từ các làng nghề trong tỉnh ước tính khoảng gần 950 tấn/ngày, chỉ tính riêng tại CCN Phong Khê khoảng 25 tấn/ngày ước tính hơn 8700 tấn/năm. Quá trình hoạt động sản xuất giấy tái chế của làng nghề đã thải ra môi trường nhiều loại chất thải rắn, trong đó có tỷ lệ khá lớn chất thải nhựa và nilon lẫn vào giấy lề được thải ra sau quá trình sản xuất, không được thu gom triệt để vứt bừa bãi ra các kênh, mương, ao, hồ, sông, ngòi làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt, gây mất cảnh quan môi trường, tắc nghẽn các dòng chảy sông Ngũ Huyện Khê,... Hiện cả khu vực làng nghề Phong Khê chỉ có một bãi rác thải được hình thành một cách tự phát ở trên bờ sông Ngũ Huyện Khê thuộc khu vực thôn Dương Ổ. Do không được quản lý tốt nên bãi rác đã gây ra những ảnh hưởng không tốt đến cư dân xung quanh như gây mùi hôi thối, rác thải rơi vãi. Mỗi khi trời mưa rác thải trôi nổi khắp nơi gây ô nhiễm nguồn nước mặt thậm chí nước ngầm, ô nhiễm môi trường đất. Mỗi khi trời nắng, gió thổi mạnh, không gian của làng nghề bị mùi bay từ bãi rác, nilon bay lung tung khắp mọi nơi, rất mất mĩ quan, môi trường, không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Qua khảo sát về tình hình khắc phục môi trường của làng nghề cho thấy, công tác khắc phục sự cố chưa được quan tâm đúng mức, đang chỉ dừng lại ở mức, đánh giá, và đề xuất, chưa có phương pháp cụ thể. Hiện nay, ở làng nghề Phong Khê, ngoại trừ thôn Dương Ổ có một tổ thu gom rác sinh hoạt còn lại tất cả các thôn đều chưa có tuyến thu gom, đội thu gom rác riêng. Chất thải rắn nói chung được thải ra ở khắp nơi. Phần lớn các hộ dân vứt rác thải sinh hoạt xuống ao, đầm hay ven đường, bãi sông, tạo thành các ổ dịch bệnh. Mỗi khi trời mưa rác thải trôi nổi khắp nơi gây ô nhiễm nguồn nước mặt thậm chí nước ngầm, ô nhiễm môi trường đất.
Thiết lập hình thức thu gom rác thải
Nghiên cứu thành công hệ thống xử lý rác thải nilon với hệ thống xử lý nước thải liên hợp là một sáng kiến mới chưa bao giờ được thực hiện ở địa bàn Phong Khê, Bắc Ninh. Đây là mô hình ứng dụng công nghệ có hiệu quả và tác động về nhiều mặt, cả về môi trường và KT-XH, thu hút được sự quan tâm và tham gia của nhiều người dân và các nhà khoa học.
Đưa công nghệ vào xử lý nước thải. Ảnh: Nhân dân
Với mô hình hệ thống xử lý liên hợp gồm có 2 hệ thống riêng biệt được kết nối với nhau: Hệ thống rửa rác thải nilon của quy trình sản xuất giấy tái chế (công suất 4 tấn/ngày đêm); Hệ thống xử lý nước sau rửa nilon để tái sử dụng vào quy trình sản xuất giấy (công suất 200m3 nước/ngày đêm). Nilon được thu gom từ các cơ sở sản xuất giấy tái chế trên địa bàn và giặt rửa qua bể xử lý nói trên. Sau khi được xử lý, nilon sạch sẽ được bán làm nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất nhựa tái chế. Đồng thời, với hệ thống xử lý nước, một phần lớn lượng nước sẽ được tái sử dụng, quay trở lại quá trình rửa nilon.
Kết quả nghiên cứu làm 3 giai đoạn, thực hiện chạy hệ thống trong 11 tháng cho thấy: Xử lý được 660 tấn nilon/11 tháng. Giảm được 30% tổng lượng nilon thải ra môi trường của tất cả 234 cơ sở trên địa bàn xã Phong Khê; Tái sử dụng được ít nhất 55.000 m3 nước/11 tháng; Ít nhất 50% số cơ sở sản xuất có phản hồi tốt về hiệu quả của nghiên cứu; Tổ chức 01 buổi báo cáo tổng kết nghiên cứu tại cộng đồng có sự góp mặt của chính quyền địa phương và đại diện của các cơ sở sản xuất trong CCN Phong Khê.
Hệ thống xử lý nước tuần hoàn từ nhà máy tái chế ở Bắc Ninh
Với hệ thống xử lý liên hợp thí điểm có công suất 1 tấn nilon/ngày đêm, sẽ thu gom tập trung rác thải nilon từ các doanh nghiệp trên địa bàn để xử lý và đưa ra thành phẩm là nilon sạch, có khả năng tái chế được. Tái sử dụng 95% nước thải của quá trình xử lý nilon. Nước thải sẽ được xử lý 200m3 và tái sử dụng làm nước rửa ni lon. Kêu gọi được sự tham gia của ít nhất 50 trên tổng số 300 cơ sở sản xuất trong KCN đóng góp và thu gom rác thải nilong cho hoạt động tái chế rác. Ban đầu, các doanh nghiệp tham gia dưới hình thức thu gom tập trung rác thải nilon làm nguyên liệu đầu vào cho mô hình xử lý rác nilong.
Xây dựng 3 hệ thống xử lý liên hợp trên địa bàn CCN giấy Phong Khê. Gồm 1 hệ thống thí điểm được đầu tư 50% tổng chi phí xây dựng và 2 hệ thống được hỗ trợ một phần (10-15% tổng số vốn đầu tư xây dựng) từ nguồn vốn doanh nghiệp phát thải. Theo đó, số người hưởng lợi trực tiếp là các cơ sở rửa nilon tái chế và cơ sở sản xuất giấy tái chế trong KCN giấy Phong Khê - Bắc Ninh; ngoài ra còn có 15.000 dân cư xã Phong Khê giảm thiểu được rác thải nilon ra môi trường.
Mang lại lợi ích cho cộng đồng
Nghiên cứu góp phần giải quyết được các vấn đề môi trường đang gây nhức nhối trên địa bàn làng nghề Phong Khê, tỉnh Bắc Ninh. Chất thải rắn (chủ yếu là nilon) đã trở thành gánh nặng của các nhà quản lý trong những năm gần đây. Nghiên cứu này được xây dựng nhằm nâng cao ý thức của cộng đồng, kêu gọi sự tham gia của cộng đồng vào việc thu gom tập trung rác thải nilon. Rác thải nilon sau khi thu gom sẽ được xử lý tại chỗ, giảm gánh nặng cho bãi rác sẵn có đã quá tải. Với hệ thống xử lý liên hợp được triển khai, tổng lượng rác thải nilon được giảm thiểu tới 30% (tương đương 660 tấn/năm).
Dự án xây dựng nhà máy xử lý chất thải rắn và chuyển hóa thành điện năng và ký kết hợp tác đầu tư với Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) tại Bắc Ninh
Nghiên cứu không chỉ mang lại lợi ích về môi trường mà còn mang lại lợi ích về kinh tế và xã hội cho các doanh nghiệp nói riêng và dân cư Phong Khê nói chung. Nilon sau khi được xử lý qua hệ thống xử lý liên hợp sẽ sạch và bán cho các doanh nghiệp sản xuất nhựa tái chế tại, Hưng Yên, Hà Nội, Ninh Bình, Thái Bình… Về khía cạnh môi trường, bên cạnh giảm thiểu lượng rác thải nilon, dự án còn giảm thiểu gánh nặng ô nhiễm nguồn nước ở Phong Khê. Bể xử lý nước sinh học aerotank 200m3 làm sạch nguồn nước thải ra môi trường và tái sử dụng một phần nước vào quy trình sản xuất giấy, có tính bền vững cao. Về mặt kinh tế, lợi nhuận thu được từ việc bán rác thải nilon sẽ được sử dụng một phần để vận hành bể xử lý và đóng góp vào quỹ hoạt động môi trường của xã Phong Khê. Về mặt xã hội, môi trường được cải thiện, ý thức của người dân được nâng cao, về lâu dài sẽ cải thiện tình hình sức khỏe của người dân nơi đây. Số lượng người mắc các bệnh về đường hô hấp và bệnh da liễu (đặc biệt là phụ nữ và trẻ em) sẽ được giảm thiểu đáng kể.
Về khả năng nhân rộng và tính bền vững của mô hình nghiên cứu: kết quả đã khuyến khích tối đa sự tham gia của cộng đồng dân cư Phong Khê, là những người trực tiếp và gián tiếp hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu. Trong giai đoạn đầu, đã kêu gọi các doanh nghiệp giấy trên địa bàn cung cấp rác thải nilon cho mô hình xử lý thí điểm. Ở giai đoạn tiếp theo, sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tham quan và tự đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình. Sau đó, vận động các doanh nghiệp xây dựng hệ thống xử lý, nhân rộng tác động lan toả của nghiên cứu. Cần nhấn mạnh rằng, doanh nghiệp chỉ phải bỏ một phần vốn xây dựng ban đầu, các chi phí duy trì hoạt động về sau sẽ được trích từ nguồn lợi nhuận do bán nilon cho các cơ sở sản xuất nhựa tái chế. Như vậy, khả năng nhân rộng và tính bền vững của nghiên cứu được đảm bảo khi doanh nghiệp nhận thấy lợi ích thiết thực về môi trường, kinh tế và có khả năng duy trì hoạt động của mô hình xử lý.
Nguyễn Tiến Dũng