Mở rộng từ quản lý hành chính sang quản trị tri thức để hội nhập sâu rộng với chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu

Thứ năm, 6/11/2025, 12:14 (GMT+7)
logo Góp ý hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, ĐBQH Nguyễn Thị Lan cho rằng cần bổ sung vai trò của hệ thống đại học, viện nghiên cứu, kết hợp với số hóa quản lý và liên thông dữ liệu quốc tế sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trồng trọt, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn thực phẩm và từng bước hội nhập sâu rộng với chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu.
nguyen-thi-lanok_1762405822.webp
Đại biểu Nguyễn Thị Lan - Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường được trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10 nhằm thực hiện chủ trương và thực tế về sắp xếp tổ chức bộ máy; tổ chức chính quyền 2 cấp; phân quyền, phân cấp; đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm điều kiện đầu tư kinh doanh, giải quyết các “điểm nghẽn” do quy định của pháp luật, vấn đề cấp bách, phát sinh từ thực tiễn quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường.

Dự án Luật được bố cục 17 điều; sửa đổi, bổ sung một số điều của 15 Luật gồm: Luật Bảo vệ môi trường; Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Luật Chăn nuôi; Luật Đa dạng sinh học; Luật Đê điều; Luật Đo đạc và Bản đồ; Luật Khí tượng thủy văn; Luật Lâm nghiệp; Luật Phòng, Chống thiên tai; Luật Tài nguyên nước; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Luật Thú y; Luật Thủy lợi; Luật thủy sản; Luật Trồng trọt.

Góp ý hoàn thiện dự luật, đại biểu Nguyễn Thị Lan - Đoàn ĐBQH TP. Hà Nội đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã làm việc nghiêm túc, công phu và khoa học, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong việc hoàn thiện hồ sơ dự án Luật. Việc sửa đổi là rất cần thiết, nhằm bảo đảm phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp, đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy, tăng cường phân cấp, phân quyền, đồng thời cụ thể hóa các nghị quyết mới của Đảng và Bộ Chính trị về phát triển khoa học – công nghệ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi số.

Đại biểu nhận thấy, dự thảo đã có nhiều ưu điểm nổi bật, thể hiện ở việc hợp nhất đầu mối quản lý giữa nông nghiệp và môi trường, tăng cường liên thông dữ liệu, minh bạch hóa quản lý nhà nước, chú trọng ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong giám sát, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ tài nguyên. Đặc biệt, các sửa đổi lần này đã chú ý đến phân cấp hợp lý, giao quyền chủ động hơn cho địa phương nhưng vẫn bảo đảm sự thống nhất quản lý ở Trung ương, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế biển xanh và nông thôn bền vững trong giai đoạn mới.

Về nội dung cụ thể, tại khoản 3 Điều 9, dự thảo Luật đã quy định cụ thể các hành vi vi phạm và điều kiện sản xuất, kinh doanh. Đánh giá quy định này là cần thiết để siết chặt kỷ cương quản lý, song đại biểu cho rằng cần bổ sung vai trò của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu nông nghiệp trong công tác kiểm định, đánh giá độc lập chất lượng giống và phân bón. 

Dẫn chứng kinh nghiệm quốc tế, đại biểu nêu rõ, các trường Đại học Nông nghiệp được Nhà nước công nhận là phòng thí nghiệm tham chiếu quốc gia, có chức năng kiểm định độc lập, giám sát và phản biện kỹ thuật. Cơ chế này giúp giảm tải cho cơ quan hành chính, tăng tính khách quan, đồng thời cập nhật nhanh các tiến bộ khoa học vào quản lý thực tiễn. Việc Việt Nam bổ sung quy định này sẽ tạo nền tảng pháp lý để huy động trí tuệ khoa học trong kiểm soát chất lượng đầu vào của ngành trồng trọt.

Liên quan đến khoản 2 Điều 15 về công nhận và gia hạn lưu hành giống cây trồng, dự thảo Luật nâng thời hạn lên 20 năm đối với cây hàng năm và 25 năm đối với cây lâu năm, đồng thời cho phép gia hạn. Tuy nhiên, đại biểu đề nghị bổ sung điều kiện gia hạn rõ ràng. Theo đó, việc gia hạn cần dựa trên kết quả đánh giá định kỳ về năng suất, tính ổn định di truyền, khả năng thích nghi và tác động môi trường, do các đơn vị nghiên cứu – đào tạo được chỉ định thực hiện. 

Ở nhiều nước OECD, việc công nhận hoặc gia hạn giống chỉ được tiến hành sau khi hoàn thành bài kiểm định DUS (Distinctness, Uniformity, Stability) do tổ chức khoa học độc lập thực hiện. "Áp dụng cơ chế này ở Việt Nam sẽ giúp bảo đảm tính khoa học, minh bạch, tránh tình trạng giống bị thoái hóa vẫn lưu hành kéo dài, ảnh hưởng đến năng suất và uy tín nông sản", đại biểu nhấn mạnh.

tohanoiok_1762405822.webp
Toàn cảnh phiên thảo luận

Sau khi luật có hiệu lực thi hành và triển khai trên thực tiễn, đại biểu đề nghị cơ quan quản lý nghiên cứu hướng dẫn công nhận giống, làm thế nào để thuận lợi hơn, rút ngắn thời gian để giống sớm được đưa vào thực tiễn sản xuất, có thể xem xét một số trường hợp công nhận tạm thời, và tiếp tục theo dõi để cấp phép. Làm thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nghười dân, phù hợp điều kiện Việt Nam và tiệm cận chuẩn mực quốc tế.

Liên quan tới quy định điều kiện khảo nghiệm phân bón, ĐBQH Nguyễn Thị Lan cho rằng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần công khai danh sách các tổ chức được phép khảo nghiệm và tiến hành đánh giá lại năng lực định kỳ; cần cho phép các viện nghiên cứu, trường đại học có phòng thí nghiệm đạt chuẩn ISO/IEC 17025 được tham gia mạng lưới khảo nghiệm quốc gia. 

Việt Nam có thể tận dụng nguồn lực sẵn có tại các viện nghiên cứu, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Đại học Cần Thơ hay Đại học Nông Lâm TP. HCM – những cơ sở có năng lực khoa học cao và đội ngũ chuyên gia đạt chuẩn quốc tế, để làm lực lượng kỹ thuật nòng cốt hỗ trợ Bộ trong kiểm định, giám sát chất lượng phân bón và vật tư nông nghiệp.

Tại Điều 42 về điều kiện buôn bán phân bón, dự thảo Luật đã yêu cầu người kinh doanh phải được tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, hoặc có trình độ trung cấp trở lên trong ngành liên quan. Để đảm bảo thực thi nghiêm túc, đại biểu cho rằng cần thiết lập cơ chế cấp mã số hành nghề và đào tạo định kỳ (CPD) cho người kinh doanh phân bón. Nhiều nước như Hoa Kỳ và Canada đã áp dụng mô hình “Certified Fertilizer Dealer”, trong đó người bán phải cập nhật kiến thức kỹ thuật, môi trường và an toàn 2–3 năm một lần. Nếu áp dụng cơ chế tương tự, Việt Nam sẽ từng bước chuyên nghiệp hóa đội ngũ kinh doanh vật tư nông nghiệp, giảm tình trạng gian lận thương mại và bảo vệ lợi ích của nông dân.

Đối với Điều 64 về mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về vùng trồng do Bộ Nông nghiệp và Môi trường quản lý, kết nối trực tiếp với hệ thống của Tổng cục Hải quan, Cục Bảo vệ Thực vật và các thị trường nhập khẩu lớn. Đồng thời, cần cho phép các viện nghiên cứu và trường đại học tham gia thẩm định kỹ thuật vùng trồng, đánh giá tiêu chuẩn GAP và phân tích dư lượng hóa chất. Các nước như Thái Lan, Trung Quốc và Chile đều xây dựng hệ thống dữ liệu vùng trồng quốc gia, liên thông với hệ thống truy xuất của EU và USDA. Nếu Việt Nam áp dụng mô hình này, mã số vùng trồng của chúng ta sẽ được quốc tế công nhận, tạo lợi thế cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu.

Cùng những kiến nghị chính sách, đại biểu cũng phân tích sâu hơn về vai trò vai trò của các trường đại học, viện nghiên cứu và cho rằng cần bổ sung điều, khoản quy định về vai trò của những cơ sở này trong hệ thống quản lý trồng trọt quốc gia. Theo đại biểu, các cơ sở này không chỉ đào tạo nhân lực mà còn là đối tác kỹ thuật quan trọng trong nghiên cứu giống, kiểm định phân bón, đánh giá chất lượng và tư vấn chính sách. Việc thể chế hóa vai trò này sẽ tạo hành lang pháp lý cho mô hình hợp tác “nhà nước – nhà khoa học – doanh nghiệp – nông dân”, tương tự mô hình Teagasc của Ireland hay INRAE của Pháp, nơi khoa học được đặt ở trung tâm chính sách nông nghiệp. Đây cũng là cách để Việt Nam tận dụng nguồn lực tri thức trong nước, tăng năng lực phản biện và cập nhật khoa học công nghệ vào quá trình hoạch định và giám sát chính sách.

ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh về việc cần mở rộng từ quản lý hành chính sang quản trị tri thức, từ giám sát bằng thủ tục sang giám sát bằng dữ liệu và khoa học. Việc bổ sung vai trò của hệ thống đại học, viện nghiên cứu, kết hợp với số hóa quản lý và liên thông dữ liệu quốc tế, sẽ giúp Việt Nam nâng cao chất lượng trồng trọt, bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn thực phẩm, và từng bước hội nhập sâu với chuỗi giá trị nông nghiệp toàn cầu.

Minh Thành