
Thông tin tuyên truyền về bảo vệ môi trường, thích ứng biến đổi khí hậu
Thời gian qua, triển khai thực hiện yêu cầu của Nghị quyết Trung ương và Chỉ thị của Ban Bí thư, các cấp, các ngành đã tăng cường tuyên truyền, phổ biến quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, từ đó nâng cao nhận thức của các cấp quản lý và cộng đồng; hình thành ý thức trách nhiệm và kỹ năng thích ứng với BĐKH, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, tiết kiệm tài nguyên và BVMT; góp phần phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra tại Nghị quyết số 24-NQ/TW. Tuyên truyền nhiệm vụ, giải pháp và trách nhiệm của các cấp, ngành cũng như người dân đối với BVMT, phát triển bền vững đất nước, được nêu trong các nghị quyết của Đảng qua các nhiệm kỳ, nhất là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về “Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT”. Tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, việc chấp hành Luật BVMT năm 2020, qua đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của mỗi người dân, gia đình, cộng đồng dân cư trong công tác BVMT, thích ứng BĐKH.
Tuyên truyền trong lĩnh vực BĐKH đã đa dạng hóa phương thức thông tin; khai thác các lợi thế của chuyển đổi số, nâng cao chất lượng truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin về dự báo KTTV dự báo, cảnh báo thiên tai cho cơ quan chính quyền các cấp, tổ chức và hộ gia đình. Xây dựng và triển khai chương trình truyền thông quốc gia, tổ chức các lớp tập huấn cho chính quyền các cấp, tổ chức xã hội và cộng đồng nhằm phổ biến, nâng cao nhận thức, cập nhật kiến thức, thông tin về BĐKH, phòng chống thiên tai, thích ứng với BĐKH và giảm phát thải khí nhà kính. Đẩy mạnh phong trào, hoạt động của thanh thiếu niên, phụ nữ về phòng chống thiên tai, thích ứng với BĐKH và giảm phát thải khí nhà kính; thúc đẩy lối sống thân thiện với môi trường, góp phần hình thành lối sống văn minh, bảo vệ hệ thống khí hậu Trái đất.
Tuyên truyền, thu hút sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động, mô hình ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường, công nghệ tái tạo, sử dụng năng lượng sạch, thích ứng với BĐKH và ít phát thải khí nhà kính, mô hình cộng đồng thích ứng với BĐKH, phát triển rừng và lâm nghiệp bền vững, phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn, mô hình sinh kế dựa vào cộng đồng, dựa vào tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống, tri thức địa phương, đặc biệt chú trọng vai trò của nghệ nhân trong ứng phó với BĐKH. Phổ biến thông tin, khuyến khích dán nhãn các-bon, sử dụng sản phẩm, dịch vụ dùng năng lượng sạch, ít phát thải khí nhà kính, thân thiện môi trường thay cho sản phẩm, dịch vụ sử dụng năng lượng hóa thạch; dán nhãn sản phẩm không sử dụng chất có tiềm năng gây nóng lên toàn cầu. Tăng cường phối hợp tuyên truyền với ngành TN&MT và các cơ quan chức năng trong công tác giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật BVMT, nhất là những vụ việc, địa bàn nhân dân có nhiều bức xúc; tham gia phản biện, xây dựng, góp ý kiến vào dự thảo các văn bản pháp luật về phát triển KT-XH gắn với nhiệm vụ BVMT, ứng phó BĐKH, phát triển bền vững.
Tuy nhiên, việc phổ biến, quán triệt các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ứng phó BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT ở một số địa phương, đơn vị vẫn còn hạn chế. Đó là hình thức, phương pháp công tác tuyên truyền ở một số nơi còn chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao; công tác phối hợp các sở, ban, ngành, đoàn thể thực hiện các hình thức tuyên truyền về ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT có lúc chưa phong phú, đa dạng, nhất là việc tuyên truyền trực tiếp tại cơ sở.
Thời gian tới, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục đối với thích ứng BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT; chủ động xây dựng kế hoạch tuyên truyền dài hạn và hằng năm; cơ quan truyền thông củng cố đội ngũ cán bộ tuyên truyền, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức tài nguyên, môi trường, BĐKH, giúp nâng cao bản lĩnh và sự nhạy bén chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Đa dạng hóa các kênh thông tin, tuyên truyền BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT. Ngoài các kênh thông tin truyền thống, cần nghiên cứu xây dựng những kênh truyền thông chuyên biệt, hiệu quả cho từng đối tượng khác nhau; tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu lớn, liên thông, cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý và điều hành các nhiệm vụ liên quan tới thích ứng với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT. Tăng cường hợp tác quốc tế, học tập kinh nghiệm của các nước đi trước đã thành công trong công tác BVMT; huy động các nguồn lực góp phần thực hiện tốt công tác tuyên truyền BVMT, bảo tồn đa dạng sinh học, phòng tránh thiên tai. Các địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong cấp ủy, chính quyền địa phương, cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân; phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đối với công tác thích ứng với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT; đa dạng hóa các kênh thông tin, tuyên truyền về BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT.
Một số lưu ý trong công truyền thông cảnh báo thiên tai, bảo vệ môi trường
Truyền thông thiên tai là một quá trình đưa thông tin từ trên xuống dưới. Các nhà kỹ thuật làm bản tin cảnh báo thiên tai cung cấp cho các cấp quản lý, ra quyết định, phát trên các phương tiện truyền thông rồi tới tất cả mọi người trong xã hội. Thông tin cảnh báo sẽ qua nhiều bước trung gian để tới người dân. Vì vậy khó có thể đảm bảo tính trọn vẹn tuyệt đối nội dung tin cảnh báo trong quá trình đưa tin. Do đó có một số nguyên tắc khi truyền tin cảnh báo thiên tai như sau: Giữ đúng nguyên văn cảnh báo, tránh bình luận làm tăng thêm hoặc giảm nhẹ nội dung cảnh báo (giới truyền thông thường có xu hướng bỏ sót các cảnh báo nhỏ - khi khả năng xuất hiện thiên tai chưa rõ ràng; hoặc trầm trọng hóa các bản tin cảnh báo – khi mà thiên tai đã và đang xảy ra). Nêu rõ thời điểm phát hành bản tin cảnh báo, và thời điểm sẽ phát hành bản tin cảnh báo tiếp theo. Truyền thông thiên tai cần hướng đến các đối tượng người sử dụng (ví dụ giới tính, trình độ học vấn, vùng miền,…). Phải có tuyên truyền nâng cao nhận thức trước/trong mùa mưa bão (ví dụ các bộ phim về tuyên truyền, giáo dục trong nhà trường, hoặc các hình thức tuyên truyền không chính thức khác).
Có kênh, hệ thống đưa tin cảnh báo một cách cố định, chính thống đối với cảnh báo thiên tai (ví dụ bản tin cảnh báo bão chắc chắn sẽ được phát trên VTV1 trong mục dự báo thời tiết sau chương trình thời sự trên đài truyền hình, các bản tin dự báo thời tiết sau tin thời sự trên VOV, mục/cột trong báo viết về dự báo thời tiết, thông tin thiên tai …). Trình độ hiểu biết về thiên tai và các cách phòng chống của đông đảo nhân dân chưa cao. Trong khi truyền thông cảnh báo thiên tai ở Việt Nam chưa tập trung nhiều vào việc hướng dẫn người dân có các phản ứng thích hợp khi có cảnh báo thiên tai/hoặc khi thiên tai xảy ra.
Với sự bất thường của nhiều hiện tượng thiên tai, trong nhiều trường hợp cơ quan dự báo không đủ thông tin cần thiết để có thể dự báo, cảnh báo chính xác một sự kiện có thể xảy ra cụ thể ở đâu và vào thời điểm nào (ví dụ hiện tượng lốc tố, dông, sét, lũ quét, sạt lở đất,…). Trong những trường hợp này các cơ quan truyền thông cần có quan điểm tích cực, hiểu đúng bản chất của vấn đề để truyền đạt thông tin một cách chính xác.
Với vị trí nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nơi có hệ quả thời tiết là sự giao tranh giữa các hệ thống thời tiết hết sức phức tạp, chúng ta hàng năm phải gánh chịu rất nhiều thiên tai như bão lớn, lũ lụt… Thiên tai không chỉ gây ra từ các hệ thống thời tiết qui mô lớn mà còn phát sinh từ các hệ thống thời tiết qui mô vừa vùng nhiệt đới. Những hệ thống thời tiết này đang đòi hỏi phải có những nghiên cứu khảo sát hết sức khoa học mới có thể dự báo và cảnh báo được. Chính vì vậy, năng lực cảnh báo đối với các thiên tai cũng còn hạn chế đối với một số trường hợp như lũ quét, tố lốc, dông sét,… Đây không chỉ là khó khăn của cơ quan khí tượng Việt Nam mà còn là khó khăn của rất nhiều nước đang phát triển.
Sự phức tạp của hệ thống thời tiết kết hợp với sự phức tạp về mặt địa lý đã dẫn đến các hậu quả hết sức khác nhau của thiên tai đối với các vùng miền. Hiểu biết các bản tin cảnh báo, nhận thức được mối nguy hiểm trong bản tin cảnh báo cũng là một khó khăn đối với cộng đồng. Ngay như xoáy thuận nhiệt đới được tổ chức Khí tượng thế giới phân loại theo sức gió mạnh nhất và mức độ ảnh hưởng thành: áp thấp; áp thấp nhiệt đới; bão; bão mạnh,…Trên thực tế ở Việt Nam nhiều khi chỉ một vùng áp thấp đã có thể gây ra một đợt mưa lớn đến vài trăm mm. Tại miền Bắc, tác động của không khí lạnh cũng rất khác nhau đối với từng địa phương, và từng thời gian trong năm. Không phải đợt không khí lạnh nào cũng gây ra dông lốc, gây ra biển động mạnh trên vịnh Bắc Bộ và không phải đợt nào cũng có rét đậm, rét hại. Từ đó chúng ta thấy rằng, cần phải có sự cảnh báo cụ thể cho từng địa phương và cần phải có sự hiểu biết nhất định của cộng đồng đối với nội dung mỗi cảnh báo. Cộng đồng có hiểu rõ nội dung cảnh báo và nhận thức được mức độ ảnh hưởng đến với mình thì mới có thể thúc đẩy họ có những hành động ứng phó thích hợp.
Công tác tuyên truyền có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và tạo ra chuyển biến về hành động trong công tác BVMT. Trong đó, trong công tác tuyên truyền BVMT cần sự phối hợp giữa cơ quan báo chí với các cơ quan quản lý Nhà nước trên địa bàn, với yêu cầu đặt ra: Đổi mới nội dung tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm về BVMT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, doanh nghiệp và mọi người dân. Hết sức chú ý đến yếu tố môi trường, phát triển kinh tế xanh, bền vững trong thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về BVMT trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Hình thành các thiết chế văn hóa, đạo đức, ứng xử thân thiện với môi trường trong toàn xã hội. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, đó là huy động toàn dân tham gia BVMT, đặc biệt là tình trạng xả rác bừa bãi, ngập nước,… mà nguyên nhân chính gây ra có một phần từ ý thức, trách nhiệm trong BVMT của chính mỗi người dân và của cộng đồng dân cư; khẳng định BVMT không chỉ là quyền lợi, nghĩa vụ mà còn là văn hóa, đạo đức, đảm bảo cho cuộc sống văn minh, hiện đại.
HOÀNG NGUYÊN
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2024