
Ảnh minh họa
Biến đổi khí hậu ảnh hưởng trong tương lai ngày càng trầm trọng
Tần suất xuất hiện các hiện tượng thời tiết cực đoan diện rộng dày hơn. Ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và miền Trung, hạn lại tiếp tục tái diễn trong năm 2019-2020 với quy mô lớn và mức độ khốc liệt hơn so với đợt hạn hán, xâm nhập mặn năm 2016. Trong năm 2020, nguồn nước trên các sông suối khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên tiếp tục suy giảm và thiếu hụt so với trung bình nhiều năm cùng kỳ từ 35% đến 70%, một số sông thiếu hụt trên 80%. Bão lớn cấp 4 và 5 diễn ra thường xuyên hơn nhiều trong vòng 35 năm trở lại đây đã dịch chuyển dần xuống phía Nam trong vòng 5 thập kỷ gần đây.
Theo kịch bản BĐKH, nước biển dâng và các nghiên cứu khác cho thấy xu hướng gia tăng BĐKH là không thể tránh khỏi trong tương lai. Đến năm 2100, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam có thể tăng từ 0,60C-40C; lượng mưa có xu hướng tăng tập trung vào mùa mưa và giảm vào mùa khô; nước biển dâng từ 36 cm-100 cm thay đổi theo kịch bản và vị trí địa lý. Vùng núi phía Bắc và ở miền Trung sẽ chịu nhiều rủi ro hơn do lũ quét và trượt lở đất khi chế độ mưa thay đổi, với tần suất và cường độ mưa lớn ngày càng nhiều. Trong khi đó, những vùng chịu rủi ro cao hơn và dễ bị tổn thương hơn do hạn hán và thiếu nước, tăng hoang mạc hoá ở Việt Nam, bao gồm: Vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, Đồng bằng Bắc Bộ, vùng trung du và khu vực Tây Nguyên. Đối với ĐBSCL, các trận lũ lớn xảy ra vào những năm giữa Thế kỷ 21 kết hợp với nước biển dâng khoảng 30 cm sẽ làm cho diện tích ngập lụt tăng trên 25% so với diện tích ngập lụt trong trận lũ lịch sử năm 2000, diện tích ngập lũ có thể chiếm gần 90% diện tích tự nhiên ĐBSCL. Ngoài ra, ĐBSCL cũng chịu tác động của sụt lún đất do lún địa chất và khai thác nước ngầm quá mức. Trong vòng 10 năm qua, riêng vùng bán đảo Cà Mau có tốc độ sụt lún khoảng 20 cm, có những điểm tại TP. Cần Thơ và tỉnh Bạc Liêu bị sụt lún đến 50 cm.
Đến năm 2100, nếu mực nước biển dâng 100 cm, 6,3% diện tích đất của Việt Nam sẽ bị ngập lụt, 4% hệ thống đường sắt, 9% hệ thống đường quốc lộ và 12% hệ thống đường tỉnh lộ sẽ bị ảnh hưởng; trên 10% diện tích vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và tỉnh Quảng Ninh, trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền Trung và trên 20% diện tích TP. Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập, ảnh hưởng trực tiếp đến trên 9% dân số vùng ĐBSH và tỉnh Quảng Ninh, gần 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung và khoảng 7% dân số TP. Hồ Chí Minh; riêng ĐBSCL sẽ có khoảng 39% diện tích bị ngập, ảnh hưởng gần 35% dân số, nguy cơ mất đi 40,5% tổng sản lượng lúa của cả vùng. Các lĩnh vực có mức độ rủi ro cao trước BĐKH là nông nghiệp và an ninh lương thực, các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, sức khỏe cộng đồng, nơi cư trú và hạ tầng kỹ thuật do đây là những ngành, lĩnh vực có mức độ phơi bày và độ nhạy cao với thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan.
Trong tương lai, nếu mực nước biển dâng 100 cm và không có các giải pháp ứng phó, khoảng 16,8% diện tích ĐBSH, 1,5% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, 17,8% diện tích TP. Hồ Chí Minh và 38,9% diện tích ĐBSCL có nguy cơ bị ngập dẫn đến mất đất canh tác nông nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, nước phục vụ mục đích sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.
Nâng cao năng lực, áp dụng các mô hình thích ứng
Trước những tác động của BĐKH, cơ quan quản lý cần tăng cường khả năng chống chịu và nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng, thông qua đầu tư cho các hành động thích ứng, ứng dụng KHCN, nâng cao nhận thức, sẵn sàng điều chỉnh trước những thay đổi của khí hậu với các nhiệm vụ giải pháp cụ thể. TS. Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, nước ta đã xuất hiện nhiều mô hình thích ứng với BĐKH có tính sáng tạo, trong đó có mô hình sinh kế thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng, các mô hình thích ứng thông minh. Các mô hình được xây dựng trên cơ sở kinh nghiệm, sáng kiến của bản địa và đã có sự chọn lọc, thích nghi với đặc điểm văn hóa, phù hợp với điều kiện tự nhiên và xã hội của cộng đồng. Để nâng cao năng lực cộng đồng thích ứng với BĐKH, Kế hoạch quốc gia thích ứng BĐKH đã đề ra các nhiệm vụ chú trọng các giải pháp thích ứng BĐKH dựa vào cộng đồng. Do đó, chúng ta cần đặc biệt chú trọng một số giải pháp. Cụ thể: Hỗ trợ, khuyến khích cộng đồng tham gia phát triển lâm nghiệp bền vững; nhân rộng mô hình phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn tại các đầm nuôi trồng thủy sản đã bị suy thoái theo hướng lâm-ngư kết hợp dựa vào cộng đồng; hỗ trợ phát triển mô hình sinh kế cộng đồng dựa vào rừng theo hướng thích ứng với BĐKH. Quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng, sử dụng tri thức người dân địa phương trong phòng tránh thiên tai, tổng kết, đánh giá, triển khai, nhân rộng mô hình phòng tránh thiên tai dựa vào cộng đồng. Phát triển các mô hình thích ứng dựa vào hệ sinh thái và dựa vào cộng đồng, bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học (ĐDSH) và dịch vụ hệ sinh thái dựa vào cộng đồng và thích ứng với BĐKH, trong đó ưu tiên bảo tồn nguồn gene quý, các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng và các hệ sinh thái quan trọng, ứng dụng kiến thức của người dân địa phương trong bảo tồn và sử dụng bền vững BĐKH, bảo đảm sinh kế bền vững, ưu tiên cộng đồng dễ bị tổn thương.
Xây dựng và nhân rộng các mô hình vệ sinh môi trường và nước sạch thích ứng với BĐKH cho cộng đồng và cơ sở y tế, xây dựng, nhân rộng các mô hình về dinh dưỡng, thực phẩm, bệnh lây nhiễm, bệnh không lây nhiễm và ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường, công nghệ tái tạo, sử dụng năng lượng sạch thích ứng với BĐKH cho cộng đồng và các cơ sở y tế. Bảo tồn phát huy văn hóa truyền thống, tri thức địa phương trong thích ứng BĐKH, tổng kiểm kê, sưu tầm, nghiên cứu tri thức địa phương về thích ứng và ứng phó với BĐKH; phổ biến tri thức địa phương trong cộng đồng, đặc biệt chú trong vai trò của nghệ nhân và xây dựng mô hình cộng đồng thích ứng với BĐKH. Phát triển và nhân rộng các mô hình thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng và dựa vào hệ sinh thái; tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương trong giám sát, quản lý và bảo tồn ĐDSH.
Trên thực tế, đã có những mô hình thích ứng thông minh, tại ĐBSCL mô hình thích ứng thông minh theo tự nhiên, chủ động thích ứng với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn đã được triển khai. Hiệu quả của việc phân vùng, chuyển đổi sản xuất ở ĐBSCL theo phương châm thuận thiên đã được chứng minh qua đợt hạn mặn kỷ lục 2019-2020 vừa qua, qua đó chuyển hóa được thách thức thành cơ hội cho phát triển, giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất, kinh doanh. Nếu tính thiệt hại về riêng diện tích lúa đợt hạn mặn vừa qua chỉ bằng khoảng 10% so với đợt hạn mặn nặng nề năm 2015-2016.
Nhiều mô hình, giải pháp thích ứng, ứng phó BĐKH được áp dụng thực tế, chuyển giao cho các địa phương thành công cần được nhân rộng: Mô hình chuyển đổi phát triển nông nghiệp thông minh; chuyển đổi cây trồng, luân canh tăng vụ, nuôi trồng thủy sản xen kẽ cây trồng thích ứng với BĐKH,... Theo GS. Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, những năm gần đây chuyển đổi mạnh mẽ hơn, tại vùng mặn ven biển, diện tích lúa - tôm tăng nhiều nhưng có tính tự phát. Để bảo đảm an ninh lương thực, Nhà nước đã tập trung đầu tư cho thuỷ lợi. Bây giờ, nhiều tỉnh đã sử dụng kinh phí của tỉnh, giúp cho bà con nông dân làm hệ thống lúa-tôm. Trong mùa mưa, trồng lúa rất tốt, khi ít mưa, nước mặn lên, người nông dân nuôi tôm. Việc này đem lại lợi ích gấp 4,5 lần cây lúa. Tuy nhiên, trong việc chuyển dịch này, tự phát còn nhiều, chưa có đầu tư tổng thể nên việc lợi tức của người nông dân nuôi tôm cũng còn hạn chế. Phong trào chuyển lúa sang trồng cây ăn trái khá nhiều nhưng làm còn lẻ tẻ. Bên cạnh đó, nhiều năm nay, một trong những khó khăn của người nông dân khi chuyển đổi là vấn đề đầu ra. Phải giải quyết đầu ra và không để thương lái hoành hành thì mới đem lại hiệu quả thực sự. Cần định hướng tư duy từng vùng, vùng nào trồng cây gì, từ định hướng đó, chúng ta mới kết hợp nông dân với nông dân thành những hợp tác xã và liên kết với doanh nghiệp.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cho biết, Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH (Nghị quyết 120) là bước đột phá lớn, có ý nghĩa định hình chiến lược phát triển bền vững ĐBSCL theo hướng tổng thể, đồng thời, tích hợp với tầm nhìn dài hạn và khát vọng về một vùng ĐBSCL trù phú, thịnh vượng, lấy con người làm trung tâm, coi việc sử dụng hiệu quả tiết kiệm và bền vững tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên khác là triết lý phát triển. Nghị quyết số 120 tạo chuyển biến căn bản về mặt nhận thức, tư duy phát triển ĐBSCL theo hướng “thuận thiên”. Từ chỗ phát triển dựa vào tài nguyên thiên nhiên ưu đãi như điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn lợi thủy sản,… đã chuyển đổi sang phát triển dựa vào năng suất lao động, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Tư duy phát triển đã thay đổi toàn diện, coi nước mặn, nước lợ là tài nguyên để chuyển đổi cơ cấu, phát triển sản xuất hiệu quả. Trên cơ sở đó, đa dạng hóa sản phẩm như lúa gạo, cây ăn trái, thủy sản nước ngoạt, nước lợ, nước mặn,… Thực tế cho thấy, từ các kết quả thực hiện nghị quyết như đã nêu ở trên, đã xuất hiện nhiều mô hình, sáng kiến hay, nổi bật là: Mô hình trồng lúa mùa chất lượng cao kết hợp nuôi tôm càng xanh tại tỉnh Kiên Giang, mô hình nuôi cá tra, mô hình nuôi tôm nước lợ, mô hình kinh tế hợp tác liên kết theo chuỗi giá trị của tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, mô hình du lịch sinh thái của tỉnh An Giang, mô hình lúa chịu mặn thích ứng BĐKH của tỉnh Bến Tre,… Những mô hình này đã từng bước tạo sinh kế bền vững cho người dân, an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân vùng ĐBSCL đã có những thay đổi đáng kể.
Điển hình cho việc thích ứng của cộng đồng, áp dụng các mô hình thích ứng thành công là tỉnh Kiên Giang. Nằm ở hạ lưu sông Hậu, tiếp giáp với biển, chịu ảnh hưởng trực tiếp của chế độ thủy triều khiến tỉnh dễ bị tổn thương bởi BĐKH. BĐKH đối với Kiên Giang không còn là dự báo, kịch bản, mà biểu hiện rõ nét bởi sự xâm nhập mặn, sự khan hiếm nước ngọt trong mùa khô và các thời tiết khắc nghiệt ở vùng ven biển cũng như hải đảo vào mùa mưa. Tình trạng sạt lở bờ biển diễn ra nghiêm trọng, nhiều đai rừng phòng hộ ven biển bị sóng đánh trôi,... Theo Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang Đỗ Thanh Bình, giai đoạn 2017-2020, tỉnh đã chuyển chuyển dịch 19.154 ha lúa 2 vụ ven biển sang mô hình tôm - lúa, giá trị tăng thêm 35%; nâng cao chất lượng giống, ứng dụng khoa học kỹ thuật, phát huy cơ sở hạ tầng giữ vững sản lượng lúa 4,5 triệu tấn (năm 2020), trong đó lúa chất lượng cao chiếm trên 80%. Sản lượng thủy sản đạt 836 nghìn tấn, vượt 110% kế hoạch. Nhiều mô hình, sáng kiến mới ra đời, từng bước tạo sinh kế bền vững cho người dân trong bối cảnh mới; điển hình là các mô hình: Trồng lúa mùa chất lượng cao kết hợp nuôi tôm càng xanh,… Đặc biệt, trong điều kiện hết sức khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và hạn mặn, nhưng năm 2020, giá trị thu được trênha đất trồng trọt đạt 100 triệu đồng/năm (tăng 22 triệu đồng/ha so với năm 2015), giá trị nuôi trồng thủy sản trên 1 ha đất mặt nước đạt 130 triệu đồng/năm, tăng 35% so với năm 2017,… thu nhập người dân từ 50 triệu đồng/ha, tăng lên 100-130 triệu đồng/ha. Nhờ đó bình quân tốc độ tăng giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản giai đoạn 2017-2020 của tỉnh đạt 3,33%/năm.
NGUYÊN HOÀNG MẠNH
Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang