Ngành Tài nguyên và Môi trường: Hiện đại hóa công nghệ quan trắc khí tượng thủy văn

Thứ hai, 6/5/2024, 10:44 (GMT+7)
logo Với lĩnh vực khí tượng thủy văn là nhiệm vụ quan trọng, thông tin, dữ liệu là đầu vào quan trọng của các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội, phục vụ đời sống hằng ngày của người dân và góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Đầu tư cho khí tượng thủy văn cần đi trước một bước, tiến hành đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Ngành Khí tượng Thủy văn đã ưu tiên hiện đại hóa hệ thống quan trắc, thông tin, nâng cao năng lực công nghệ dự báo và tiến hành chuyển đổi số; tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ, chủ động, tích cực hợp tác quốc tế góp phần thúc đẩy, phát triển hiện đại hóa Ngành.

Ngành Tài nguyên và Môi trường: Hiện đại hóa công nghệ quan trắc khí tượng thủy văn

ảnh minh họa

Những kết quả bước đầu 

Những năm gần đây, ngành Khí tượng thủy văn (KTTV) đã tăng cường hiện đại hoá công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc KTTV đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng, góp phần nâng cao năng lực, hiện đại hóa việc điều hành tác nghiệp KTTV hàng đầu khu vực Đông Nam Á.

Đến nay, mạng lưới trạm KTTV quốc gia có khoảng 1800 trạm với tỷ lệ tự động hóa các hoạt động quan trắc KTTV đạt từ 70 đến 80%; hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật của 10 trạm ra đa thời tiết. Ngành KTTV nỗ lực thay đổi công tác dự báo, phát triển theo hướng hiện đại hóa, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ hiện đại, tự động nhằm tạo ra các sản phẩm đa dạng, với chất lượng tốt hơn, phục vụ công tác phòng chống thiên tai, phát triển KT-XH, QP-AN. Theo đó, hệ thống dự báo đã có nhiều thay đổi, từ các dự báo thủ công, kinh nghiệm đã được chuyển đổi sang hệ thống dự báo số độ phân giải cao. 

Ngành KTTV đã tự vận hành được hệ thống mô hình dự báo thời tiết số có độ phân giải đến 3 km, tiến tới sẽ đạt mức 1-2 km, cho phép tích hợp các số liệu như radar, đo đạc tự động giúp nâng cao được khả năng chất lượng dự báo.

Độ tin cậy trong các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai (áp thấp nhiệt đới, bão, lũ,...) đã được tăng lên; các công nghệ dự báo KTTV nằm trong nhóm các nước dẫn đầu Đông Nam Á và dần tiếp cận trình độ các nước tiên tiến ở châu Á, đặc biệt là trong dự báo, cảnh báo bão,, mưa lớn, rét đậm, rét hại, lũ lụt và nắng nóng. Độ chính xác về dự báo vị trí và cường độ bão hiện nay đã dần tiệm cận với trình độ dự báo của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.

Dự báo, cảnh báo mưa lớn đạt trước 2-3 ngày với độ tin cậy khoảng 75%; dự báo, cảnh báo rét đậm, rét hại gây ra bởi không khí lạnh trước 2-3 ngày với độ tin cậy 80-90%; dự báo, cảnh báo lũ trên các sông khu vực miền Trung, Tây Nguyên trước 1-2 ngày và ở khu vực Bắc Bộ trước 3-5 ngày thường đạt 70-80%; dự báo, cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng trước từ 2-3 ngày với độ tin cậy 70%, thời điểm kết thúc các đợt nắng nóng diện rộng chính xác từ 80-90%.

Tuy nhiên hiện nay, còn một số tồn tại, khó khăn, mạng lưới quan trắc KTTV quốc gia nhìn chung vẫn còn thưa, đặc biệt trên biển, công nghệ quan trắc tự động chưa được trang bị nhiều, do đó chưa đáp ứng yêu cầu của công tác dự báo đòi hỏi ngày càng cao và chính xác. Chưa kịp thời khắc phục, sửa chữa, thay thế linh kiện khi hư gây khó khăn đảm bảo duy trì hoạt động ổn định, liên tục và chính xác. Cơ sở vật chất và trang thiết bị quan trắc KTTV mặc dù đã được đầu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng tình hình thực tế; công tác dự báo, cảnh báo đối với một số loại hình thiên tai xảy ra trong thời gian rất ngắn, phạm vi hẹp như mưa lớn cục bộ, lốc, sét, mưa đá, lũ quét, sạt lở đất còn hạn chế. Đây cũng là khó khăn chung của các cơ quan dự báo trên thế giới và cần được đầu tư nghiên cứu để cải tiến trong những năm tới.

Chuyển đổi số, hiện đại hóa công nghệ quan trắc

Chiến lược phát triển Ngành KTTV đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là tự động hóa đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng; bổ sung ra đa thời tiết cho các khu vực trên đất liền, khu vực biên giới, các đảo và quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam; phát triển mạng lưới trạm khí tượng hải văn tự động, ưu tiên khu vực biển ven bờ Vũng Tàu - Cà Mau - Hà Tiên; phát triển một số trạm hải văn dạng phao trên các vùng biển ngoài khơi. Lồng ghép hệ thống quan trắc môi trường không khí, nước mặt, đo mặn vào hệ thống trạm KTTV quốc gia; ứng dụng các công nghệ quan trắc mới, hiện đại phục vụ quan trắc KTTV và giám sát BĐKH.

Ngành Tài nguyên và Môi trường: Hiện đại hóa công nghệ quan trắc khí tượng thủy văn

ảnh minh họa

Phát triển, hoàn thiện mạng lưới trạm KTTV phục vụ nhu cầu của bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực có liên quan; 100% công trình phải quan trắc KTTV được thực hiện quan trắc và cung cấp thông tin, dữ liệu KTTV theo quy định của pháp luật. Hoàn thiện các quy trình vận hành chuẩn (SOPs) quản lý hệ thống trạm KTTV quốc gia; xây dựng hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo KTTV hiện đại; kiểm định, hiệu chuẩn 100% phương tiện đo tại các trạm KTTV của quốc gia và của bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân; xây dựng, vận hành một số mô hình quản lý trạm KTTV hiện đại tự động hóa, giảm thiểu trạm đo thủ công.

Hoàn thành chuyển đổi số lĩnh vực KTTV đạt 100% theo chỉ tiêu chuyển đổi số của ngành TN&MT; cập nhật, số hóa 100% tư liệu giấy KTTV; tăng cường năng lực tính toán chuyên ngành KTTV của hệ thống đạt tối thiểu gấp 05 lần so với năm 2020. Đầu tư mở rộng các trạm thông tin vệ tinh mặt đất, thiết bị thông tin lưu động; vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo đa thiên tai, kết hợp với hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia. Hiện đại hóa công nghệ quan trắc KTTV đến năm 2030 nâng tổng số trạm tự động trên toàn mạng lưới đạt 95% đối với các trạm khí tượng, đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao và tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng nước. 

Bộ TN&MT vừa ban hành Kế hoạch thực hiện Quyết định số 1261/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Hiện đại hóa Ngành KTTV đến năm 2025 và thời kỳ 2026-2030”. Bao gồm những nhiệm vụ cụ thể. Trong đó, về công nghệ thông tin và chuyển đổi số KTTV, phát triển công nghệ thông tin KTTV bao gồm: Hạ tầng số, dữ liệu số và nền tảng số; đảm bảo duy trì hoạt động ổn định, thông suốt của hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin và an toàn thông tin. Hoàn thành cơ sở dữ liệu KTTV quốc gia tập trung, liên thông với các cơ sở dữ liệu chung của quốc gia; ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo trong quản lý, khai thác, chia sẻ thông tin, dữ liệu KTTV; số liệu quan trắc tại các trạm thuộc hệ thống KTTV quốc gia được thu nhận sát theo thời gian thực, kiểm soát, lưu trữ theo đúng quy định. Hoàn thành chuyển đổi số lĩnh vực KTTV; số hóa tư liệu giấy KTTV; tăng cường năng lực tính toán chuyên ngành KTTV của hệ thống. Đầu tư mở rộng các trạm thông tin vệ tinh mặt đất, thiết bị thông tin lưu động; vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo đa thiên tai, kết hợp với hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia.

Hiện đại hóa công nghệ quan trắc KTTV đến năm 2030 tăng thêm số trạm tự động trên toàn mạng lưới. Nghiên cứu bước đầu áp dụng công nghệ quan trắc bằng vệ tinh, camera, trí tuệ nhân tạo; tăng dày mật độ ra-đa thời tiết cho các khu vực trên đất liền, khu vực biên giới, các đảo và quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam; lồng ghép mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia với mạng lưới trạm KTTV quốc gia; hiện đại hóa hệ thống kiểm định, hiệu chuẩn phương tiện đo KTTV; đầu tư, hiện đại hóa hệ thống quan trắc, theo dõi, giám sát thiên tai chuyên dùng, nhất là đối với mưa, bão, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất, sạt lở bờ sông, bờ biển.

Dự báo, cảnh báo KTTV, nâng cao độ tin cậy dự báo KTTV hàng ngày trong điều kiện thời tiết bình thường; dự báo đủ độ tin cậy quỹ đạo và cường độ áp thấp nhiệt đới trước 02-03 ngày, tăng thời hạn cảnh báo quỹ đạo và cường độ bão trước 03-05 ngày; dự báo, cảnh báo lũ đủ độ tin cậy đối với các hệ thống sông lớn ở Bắc Bộ trước 02-03 ngày, ở Trung Bộ trước 01-02 ngày, ở Nam Bộ trước 10 ngày; tăng chất lượng dự báo định lượng mưa lớn trước 02-03 ngày lên thêm 05-10% so với năm 2020; cảnh báo đủ độ tin cậy lũ quét, sạt lở đất trước 06 giờ; tăng thời hạn dự báo thời tiết đến 10 ngày, cảnh báo xu thế diễn biến một số hiện tượng KTTV nguy hiểm đến 01 tháng, cảnh báo hiện tượng ENSO tác động đến Việt Nam, hạn hán, xâm nhập mặn từ 03 tháng đến 01 năm; nâng chất lượng dự báo, cảnh báo KTTV dẫn đầu các nước trong khu vực ASEAN. 

Đồng thời, cung cấp 100% thông tin phân vùng thiên tai, rủi ro thiên tai, giám sát BĐKH, tài nguyên khí hậu, tài nguyên nước phục vụ việc xây dựng, thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH, dự án trọng điểm của quốc gia. Trong ứng dụng khoa học công nghệ, từng bước nghiên cứu làm chủ công nghệ phương tiện đo, thám sát bằng phương tiện bay, vệ tinh khí tượng, mô hình tính toán toàn cầu về khí tượng, mô hình thủy văn, hải văn hiện đại; tăng cường ứng dụng, chuyển giao công nghệ mới trong dự báo, cảnh báo KTTV.

Tăng cường theo dõi chặt chẽ hiện tượng KTTV

Theo Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành, ngành khí tượng thủy văn (KTTV) đã nỗ lực khắc phục những khó khăn, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ được giao. Kết quả công tác KTTV đã được lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương và cộng đồng ghi nhận.

Thứ trưởng cho biết, ngành KTTV đã nỗ lực khắc phục những khó khăn, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Kết quả công tác KTTV đã được lãnh đạo Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương và cộng đồng ghi nhận.

"Công tác dự báo thời tiết, thủy văn thời gian qua đã được ngành thực hiện chi tiết đến các huyện, thị trên cả nước; cung cấp kịp thời các bản tin dự báo KTTV, cảnh báo về các hiện tượng thời tiết nguy hiểm phục vụ công tác chỉ đạo phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai và chủ động kế hoạch sản xuất, kinh doanh"- Thứ trưởng cho hay!.

Nhờ công tác dự báo sớm, kịp thời của ngành KTTV, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai, các cơ quan Trung ương và địa phương đã có hành động quyết liệt, hiệu quả từ sớm nên đã giảm thiểu được nhiều thiệt hại...

Để triển khai hiệu quả các hoạt động của ngành trong thời gian tới, Thứ trưởng đề nghị toàn ngành tiếp tục tăng cường theo dõi chặt chẽ, sát diễn biến các hiện tượng KTTV, đặc biệt là các hiện tượng KTTV nguy hiểm, phục vụ tốt công tác phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; giảm thiểu thiệt hại do thiên tai có nguồn gốc KTTV gây ra. Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, khoa học hơn và toàn diện về phân vùng rủi ro thiên tai phù hợp với thực tiễn; các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai tiếp tục thực hiện dựa trên tác động để người dân, cộng đồng xã hội nắm bắt kịp thời, dễ hiểu, dễ ứng dụng trong công tác chủ động phòng chống thiên tai của nhân dân.

 

Giáo sư, Tiến sĩ Mai Trọng Nhuận (nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội), Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Việt Liễn (nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khí tượng-Khí hậu, Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu) cho rằng, để thực hiện đồng bộ và hiện đại hóa công nghệ quan trắc khí tượng thủy văn, Bộ TN&MT cần lồng ghép mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia với hệ thống trạm quan trắc chuyên ngành, chuyên dụng như hàng không, nông nghiệp, thủy lợi… để tối ưu hóa nguồn lực; tập trung đầu tư, nâng cấp đồng bộ trang thiết bị, máy móc, hạ tầng truyền tải thông tin, dữ liệu quan trắc; tăng cường quan trắc tại các khu vực có nguy cơ sạt lở, quan tâm đến các trạm thủy văn khí tượng đô thị.

Đông Phương