Nghiên cứu, trao đổi về quản lý tổng hợp và thống nhất nhằm về biển và hải đảo đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045

Thứ năm, 18/11/2021, 21:10 (GMT+7)
logo Cùng với xu thế chung của thế giới về quản lý tổng hợp và thống nhất (QL&TN) biển, hải đảo, nước ta đã sớm nghiên cứu và tiếp cận phương thức này dựa trên HST, thể hiện qua việc xây dựng thể chế, thiết lập bộ máy và từng bước tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác QLNNTH TN&BVMT biển, hải đảo. QLTH về TN&BVMT biển, hải đảo không thay thế QLNN theo ngành, lĩnh vực, địa phương, mà đóng vai trò điều chỉnh và kết nối các hành vi phát triển (khai thác, sử dụng) của các ngành, lĩnh vực, địa phương, người hưởng dụng biển, vùng ven biển, hải đảo.

Nghiên cứu, trao đổi về quản lý tổng hợp và thống nhất nhằm về biển và hải đảo đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045

Ảnh minh họa

Tính tất yếu của thực tế

Thực tế hiện nay ở nước ta có 15 bộ, ngành, lĩnh vực và 28 địa phương ven biển đang khai thác và trực tiếp quản lý biển, đảo ở các mức độ khác nhau theo thẩm quyền được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao, trong khi vẫn thiếu vắng một cơ quan QLNN đủ mạnh để QLTH&TN về B&HĐ. Quản lý theo ngành đã kích thích tính tự phát, thiếu tính tổng thể và toàn diện trong các phương án phát triển dẫn đến hiệu quả phát triển trên một đơn vị diện tích biển còn thấp, tài nguyên biển bị suy thoái, truy cứu trách nhiệm ONMT biển khó, nảy sinh các mâu thuẫn về lợi ích….

Để khắc phục những bất cập nảy sinh trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, BVMT B&HĐ theo ngành, lĩnh vực, cần áp dụng một phương thức mới để quản lý TN,MT B&HĐ, đó là phương thức QLTH. Phương thức quản lý này có vai trò điều chỉnh hoạt động của con người để bảo vệ tính toàn vẹn về chức năng và cấu trúc của HST, duy trì và cải thiện năng suất của HST, qua đó, bảo đảm TN B&HĐ được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, môi trường B&HĐ được bảo vệ; hài hòa được lợi ích của các bên liên quan trong khai thác, sử dụng TN&BVMT B&HĐ. Tính tổng hợp trong quản lý TN,MT B&HĐ được thể hiện trên 03 phương diện:

Theo tính thống nhất: Mỗi vùng biển được coi là một hệ thống tài nguyên thống nhất, được quản lý theo phương thức không cắt rời, chia nhỏ hay xem xét các thành phần của nó một cách riêng biệt để bảo đảm tính toàn vẹn; đồng thời, xem xét vùng biển là hệ thống tương tác giữa tự nhiên và xã hội, giữa các yếu tố sinh học và phi sinh học.

Theo chức năng: Mỗi vùng biển là một hệ thống nhiều chức năng, cần được xem xét sử dụng cho phù hợp với các chức năng đó và trong giới hạn chịu tải của hệ thống, tiểu hệ thống trong vùng.

Tổng hợp về phương thức quản lý: Phương thức quản lý theo chiều dọc (các cấp) và chiều ngang (các bên liên quan) để bảo đảm tính đa ngành, đa cấp; đồng thời, phải có cơ chế liên kết chặt chẽ giữa các chính sách quản lý và hành động quản lý. Quản lý tổng hợp TN,MT B&HĐ với phương châm không làm thay quản lý ngành, lĩnh vực mà đóng vai trò định hướng, điều phối các hoạt động quản lý ngành, lĩnh vực; giúp khắc phục các xung đột, mâu thuẫn trong quản lý theo ngành, lĩnh vực; sử dụng hợp lý, hiệu quả TN, BVMT và các HST B&HĐ; thống nhất các hoạt động quản lý TN,MT B&HĐ từ trung ương đến địa phương, bảo đảm phát triển bền vững B&HĐ.

 Phương thức QLTH TN,MT B&HĐ không phải là hoàn toàn mới ở nước ta. Ngay từ năm 2000, tại Đà Nẵng đã thực hiện dự án thí điểm QLTH vùng bờ. Từ năm 2000 tới năm 2006, Chính phủ Hà Lan đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện dự án QLTH vùng bờ thí điểm tại Nam Định, Thừa Thiên - Huế và Bà Rịa - Vũng Tàu. Công tác này tiếp tục được triển khai trên diện rộng theo Quyết định số 158/2007/QĐ-TTg ngày 09/10/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình QLTH dải ven biển vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Ngày 06/3/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2009/ NĐ-CP về QLTH TN&BVMT B,HĐ. Ngày 21/6/2012, tại Kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIII cũng đã thông qua Luật Biển Việt Nam, trong đó tại Chương phát triển kinh tế biển đã quy định một số công cụ để QLTH TN,MT B&HĐ như: Quy hoạch sử dụng biển, giao khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên… Luật TN,MT B,HĐ năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tiếp tục thể hiện điều này. Triển khai các văn bản trên, đến nay đã thu được một số kết quả tích cực:

Về tổ chức bộ máy, đã bước đầu hình thành hệ thống bộ máy thực hiện chức năng QLNN TH&TN về B,HĐ thông suốt từ TƯ đến địa phương. Ở TƯ, đã thành lập Tổng cục B&HĐ Việt Nam trực thuộc Bộ TN&MT; ở địa phương thành lập Chi cục Biển và Hải đảo/ Phòng Biển và hải đảo trực thuộc Sở TN&MT. Cùng với đó, đã tổ chức được đội ngũ công chức, viên chức thực hiện nhiệm vụ QLNN TH&TN về B&HĐ.

Về tổ chức thực hiện, Đã có 117 quy hoạch liên quan đến khai thác, sử dụng TN&BVMT B&HĐ, bao gồm cả quy hoạch ở cấp quốc gia, cấp vùng, cấp địa phương, theo ngành, lĩnh vực đã được xây dựng và ban hành, trong đó có 115 quy hoạch được ban hành; song mang tính cốt lõi, có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo hướng tiến ra biển có thể kể đến 15 quy hoạch, bao gồm 05 quy hoạch vùng. 07 quy hoạch ngành và 03 quy hoạch BVTN B&HĐ. Công tác giao khu vực biển được thực hiện chặt chẽ với sự tham gia của nhiều bộ, ngành nhằm bảo đảm thu được những lợi ích lớn nhất từ tài nguyên biển, hạn chế tối đã những ảnh hưởng của môi trường do những hoạt động khai thác sử dụng biển. Đặc biệt, công tác điều tra cơ bản TN,MT biển (Đề án 47) đã được triển khai tích cực, bước đầu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu TN,MT biển phục vụ công tác quy hoạch, phát triển KT-XH và bảo đảm QP-AN.

Còn những hạn chế, bất cập

Qua tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW về Chiến lược biển đến năm 2020 (ban hành năm 2007) và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyêt số 09-NQ/TW cho thấy công tác quản B,HĐ thời gian qua còn những hạn chế, bất cập sau đây:

Chưa bảo đảm hài hòa giữa khai thác, sử dụng TN&BVMT, bảo tồn ĐDSH; xu thế ONMT biển chưa được ngăn chặn; BĐKH&NBD diễn biến phức tạp và tiêu cực: Một số tài nguyên sinh vật biển bị khai thác quá mức, làm suy thoái HST. Việc khai thác hải sản vượt quá trữ lượng tự nhiên, đánh bắt bằng công cụ, phương pháp hủy diệt làm suy giảm nguồn lợi hải sản quốc gia, ảnh hưởng đến khả năng tái tạo, cân bằng bền vững.

Cùng với sự phát triển các hoạt động kinh tế trên biển và ven biển, đặc biệt là việc xây dựng các nhà mày công nghiệp quy mô lớn ven biển (nhà máy thép, điện, lọc dầu…), nguy cơ xả thải và gây ONMT trên biển và ven biển ngày càng cao, trong khi giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm và BVMT chưa đủ mạnh để răn đe và ngăn chặn. Tình trạng ONMT nước biển ven bờ, vùng cửa sông, vũng, vịnh do các hoạt động kinh tế và đời sống còn xảy ra. Việc cấp phép đầu tư, xây dựng nhiều khu nghỉ dưỡng ven biển đã gây nên tình trạng chia cắt bờ biển, gây khó khăn cho người dân địa phương tiếp cận biển, cản trở đời sống bình thường của người dân ven biển.

Sự cố môi trường về tràn dầu, cháy nổ, rò rỉ hóa chất… (tương tự như Formosa) vẫn là nguy cơ cao. Lực lượng ứng phó sự cố tràn dầu vẫn còn mỏng. Phương tiện, trang thiết bị và mức độ hiệp đồng xử lý trên thực địa khi có vấn đề xảy ra vẫn còn cần phải khắc phục, củng cố.

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm chưa nghiêm. Ý thức bảo vệ môi trường của một bộ phận người dân và doanh nghiệp chưa cao. Nguồn lực, năng lực phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH chưa đáp ứng được yêu cầu. Hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật về BVMT, bảo tồn biển, ứng phó với BĐKH&NBD chậm được cụ thể hóa và đưa vào trong thực tiễn; vẫn còn những bất cập, chưa phù hợp trong thực tế. Nhiều văn bản luật, cơ chế, chính sách vẫn chú trọng xây dựng theo từng lĩnh vực riêng biệt, vấn đề BVMT biển, ứng phó với BĐKH,NBD tuy được quy định nhưng còn mang tính hình thức,… đòi hỏi phải tiếp tục rà soát và hệ thống hóa nhằm bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của cơ chế, chính sách. Việc lồng ghép vấn đề BĐKH, NBD vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch vẫn còn lúng túng do thiếu hướng dẫn cụ thể. Việc phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong ứng phó với BĐKH tuy đã được quan tâm nhưng kết quả còn rất hạn chế, không ít các hoạt động còn mang tính đơn lẻ, rời rạc; chưa tạo được mối liên hệ chặt chẽ, thuận tiện giữa các cơ quan Trung ương với các địa phương hay giữa các địa phương trong công tác về BĐKH.

Khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực biển chưa đáp ứng yêu cầu: Hệ thống cơ sở nghiên cứu và đội ngũ cán bộ KH&CN biển vừa thiếu vừa yếu. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KHCN biển còn chưa được quan tâm và đầu tư chưa thích đáng, nên chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với thành tựu KH&CN khu vực và thế giới.

Chất lượng nghiên cứu chưa đồng đều và hiệu quả ứng dụng chưa cao. Các NCKH phần lớn tập trung ở ven bờ, rất hạn chế ở vùng biển sâu, biển xa. Còn ít gắn kết giữa NCKH&CN với bảo vệ chủ quyền, quốc phòng, an ninh. Nguồn nhân lực phục vụ phát triển các ngành, lĩnh vực, địa bàn kinh tế biển chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng và chưa có cơ cấu hợp lý.

Hoạt động điều tra cơ bản biển còn ở giai đoạn ban đầu; chưa xây dựng cơ sở dữ liệu số hóa quốc gia về điều tra cơ bản biển; năng lực điều tra cơ bản yếu

Hầu hết các dự án, nhiệm vụ về điều tra cơ bản biển, đảo bị chậm tiến độ. Cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin dữ liệu về điều tra cơ bản giữa các bộ, ngành và địa phương còn nhiều hạn chế ảnh hưởng tới sự kế thừa tài liệu, dẫn đến nhiều nội dung điều tra bị chồng chéo, gây lãng phí cho NSNN. Quan hệ giữa điều tra cơ bản và nghiên cứu cơ bản về TN,MT biển còn chưa thật chặt chẽ, chưa phát huy hết được nguồn lực để hỗ trợ lẫn nhau nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ.

Công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống hóa cơ sở dữ liệu về TN,MT biển quốc gia còn chậm, ảnh hưởng tới việc khai thác và sử dụng thông tin dữ liệu về biển phục vụ phát triển KT-XH. Nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật còn rất thiếu và không đồng bộ, ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ thực hiện công tác điều tra cơ bản biển, đảo.

Đề xuất xu hướng, giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý

Đứng trước xu thế thời đại, đường lối, chủ trương đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW và thực tiễn đặt ra của việc quản trị biển nước ta, những vấn đề sau đây cần được tập trung nghiên cứu, triển khai thực hiện:

Kiện toàn Cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu; giao Bộ TN&MT làm cơ quan thường trực, giúp việc cơ quan điều phối; thành lập Văn phòng thường trực tại Tổng cục B&HĐ Việt Nam.

Kiện toàn cơ quan điều phối liên ngành chỉ đạo thống nhất thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển ở các địa phương có biển do Chủ tịch UBND cấp tỉnh là người đứng đầu và tăng cường cơ sở vật chất, năng lực QLNN TH&TN về B&HĐ cho Chi cục quản lý B&HĐ tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.

Rà soát, đánh giá tổng thể hệ thống chính sách, pháp luật về B&HĐ. Tổng kết việc thi hành và nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật TN,MT biển và hải đảo; nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn làm cơ sở xây dựng các dự án luật có liên quan về quản lý vùng bờ, khai thác, sử dụng các vùng biển và quản lý các hải đảo; xây dựng các nghị định và các VBQPPL khác về quản lý hoạt động lấn biển, quản lý hải đảo, quản lý đất ngập nước ven biển; xây dựng bộ tiêu chí, chỉ tiêu thống kê quốc gia về phát triển bền vững kinh tế biển, bộ tiêu chí và chỉ số tổng hợp quản lý vùng biển cấp tỉnh, thành phố ven biển theo chuẩn mực quốc tế.

Triển khai mạnh mẽ, hiệu quả công tác QLTH TN, BVMT biển; tăng cường công tác điều tra, đánh tài nguyên biển trong vùng biển Việt Nam làm cơ sở phục vụ xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình khai thác, bảo vệ và bảo tồn, phát triển bền vững.

Xây dựng và đưa vào vận hành ổn định, thông suốt cơ chế phối hợp, liên thông trong cấp phép nhận chìm ở biển, xả nước thải vào môi trường biển, giao khu vực biển nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý việc khai thác, sử dụng các nguồn TN,BVMT biển.

Xây dựng và thí điểm triển khai mô hình quản trị biển thông minh, tiên tiến ứng dụng công nghệ hiện đại tại một số đô thị lớn ven biển và các hải đảo, bao gồm: Hải Phòng, Đà Nẵng, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang, Cà Mau; xây dựng hệ thống truyền dữ liệu, thông tin liên lạc trên nền tảng công nghệ tiên tiến thông minh phục vụ cho các hải đảo.

Đa dạng hoá hình thức và nội dung tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; tri thức về B&HĐ tới nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế. Xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình truyền thông về B&HĐ đến năm 2030.

Sử dụng bền vững và thực hiện cơ chế chia sẻ hợp lý lợi ích từ dịch vụ hệ sinh thái và ĐDSH biển; xác định quy mô, phạm vi và triển khai các giải pháp bảo vệ, phục hồi các HST rạn san hô và thảm cỏ biển trên quy mô toàn quốc; kiểm soát các hoạt động gây tác động xấu đến ĐDSH biển.

Đẩy mạnh hợp tác, tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác, các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng vùng biển, ứng dụng KHCN hiện đại vào các ngành kinh tế biển, BVMT, phòng, chống thiên tai và thích ứng với BĐKH.

NCS. NGUYỄN MẠNH HÙNG

Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam