Nhận thức của người khuyết tật về năng lực tự bảo vệ bản thân trước tai nạn hoả hoạn và rủi ro thiên tai

Thứ năm, 30/10/2025, 14:11 (GMT+7)
logo Tóm tắt Nghiên cứu “Nhận thức của người khuyết tật trong việc bảo vệ bản thân trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai” khảo sát 242 người khuyết tật tại Hà Nội nhằm đánh giá mức độ nhận thức, năng lực tự bảo vệ và các yếu tố ảnh hưởng đến ý định hành động của họ trước các nguy cơ này. Dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe (Health belief model - HBM) và lý thuyết Niềm tin vào năng lực bản thân (self-efficacy) , dữ liệu được phân tích bằng SPSS 20.0 cho thống kê mô tả, tương quan Pearson, ANOVA, và hồi quy tuyến tính. Kết quả cho thấy, người khuyết tật có nhận thức cao về nguy cơ (M = 3.61; SD = 0.87), mức độ nghiêm trọng (M = 3.91; SD = 0.89), lợi ích hành động (M = 3.95; SD = 0.84), nhưng niềm tin vào năng lực tự bảo vệ còn thấp (M = 2.80; SD = 0.78). Hỗ trợ xã hội từ gia đình, cộng đồng và bạn bè đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao khả năng ứng phó, nhất là với nhóm người khuyết tật ở mức đặc biệt nặng. Nghiên cứu đề xuất tăng cường truyền thông và chương trình can thiệp phù hợp với từng nhóm khuyết tật để hỗ trợ nâng cao niềm tin vào năng lực tự bảo vệ bản thân trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai.

The study “Perceptions of People with Disabilities Regarding Self-Protection Against Fire Accidents and Natural Disasters” surveyed 242 persons with disabilities in Hanoi to assess their level of risk perception, self-protection capacity, and factors influencing their behavioral intentions in response to such risks. Based on the Health Belief Model (HBM) and the theory of self-efficacy, the data were analyzed using SPSS 20.0 with descriptive statistics, Pearson correlation, ANOVA, and linear regression. The results indicated that people with disabilities had a high perception of risk (M = 3.61; SD = 0.87), severity (M = 3.91; SD = 0.89), and benefits of taking action (M = 3.95; SD = 0.84), but showed low belief in their own self-protection efficacy (M = 2.80; SD = 0.78). Social support from family, community, and friends played a positive role in enhancing coping capacity, particularly among individuals with severe disabilities. The study recommends strengthening communication and implementing targeted intervention programs for different disability groups to improve their self-efficacy in protecting themselves against fire accidents and natural disasters.

Từ khóa: khuyết tật; nhận thức; năng lực tự bảo vệ; niềm tin vào bản thân; truyền thông rủi ro; disability; perception; risk communication; self-protection; self-efficacy
Ghi chú: Công trình là sản phẩm trích từ báo cáo nghiên cứu khoa học sinh viên trọng điểm được tài trợ bởi Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn trong đề tài mã số SV.2025.03.

Đặt vấn đề

Người khuyết tật (NKT) là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất trong các tình huống khẩn cấp như hỏa hoạn và thiên tai. Những hạn chế về thể chất, giác quan, nhận thức và khả năng di chuyển khiến họ gặp khó khăn trong việc nhận biết mối nguy hiểm và thực hiện các biện pháp tự bảo vệ. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, các thảm họa thiên tai xuất hiện với tần suất và mức độ nghiêm trọng cao hơn. Việt Nam là một trong những quốc gia có nguy cơ thiên tai cao nhất khu vực sông Mê Kông, với khoảng 59% diện tích đất và 71% dân số có thể bị ảnh hưởng bởi lốc xoáy và lũ lụt. Trong hơn 20 năm qua, thiên tai đã cướp đi sinh mạng của hơn 13.000 người (GFDRR, 2011). Không chỉ thiên tai, tình trạng hỏa hoạn cũng đặt ra những mối đe dọa nghiêm trọng. Thống kê của Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ (2024) cho thấy trong năm 2024, cả nước xảy ra trên 4.000 vụ cháy, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Trong những tình huống như vậy, NKT thường đối diện với nhiều rào cản trong việc sơ tán, tiếp cận thông tin khẩn cấp, tìm kiếm sự trợ giúp và tiếp cận các nguồn hỗ trợ cần thiết (UNISDR, 2013). Việc thiếu các chương trình giáo dục chuyên biệt, tài liệu hướng dẫn phù hợp và chính sách hỗ trợ toàn diện đã làm gia tăng mức độ rủi ro và tính dễ bị tổn thương của nhóm này (Malteser International, 2013). Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về phòng chống thiên tai và an toàn phòng cháy chữa cháy, số lượng nghiên cứu tập trung vào NKT vẫn còn hạn chế. Điều này dẫn đến khoảng trống trong hiểu biết về mức độ nhận thức, khả năng tự bảo vệ cũng như những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực ứng phó của họ. Trong số ít những công trình tập trung vào NKT, nghiên cứu của Chang và cộng sự (2023) cho thấy 60,3% NKT được khảo sát có kế hoạch khẩn cấp để đảm bảo an toàn khi xảy ra thảm họa thiên tai bất chợt, chủ yếu xuất phát từ động lực bảo toàn tính mạng và kinh nghiệm từ các thảm họa trước đó. Tuy nhiên, nghiên cứu của Li và cộng sự (2024) lại chỉ ra rằng tình trạng khuyết tật có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ sẵn sàng ứng phó, khiến nguy cơ gặp rủi ro khi xảy ra thiên tai và hỏa hoạn gia tăng đáng kể.

Bên cạnh đó, các biện pháp hỗ trợ từ công tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc giúp NKT nâng cao năng lực tự bảo vệ và thích ứng với tình huống khẩn cấp. Theo Harms và cộng sự (2020), công tác xã hội sau thảm họa không chỉ tập trung vào các biện pháp can thiệp tức thời mà còn hướng đến việc cung cấp thông tin, đào tạo kỹ năng ứng phó khẩn cấp cho các nhóm dễ bị tổn thương, bao gồm NKT. Sim & He (2024) cũng nhấn mạnh rằng công tác xã hội trong quản lý thiên tai cần kết hợp giữa việc xây dựng khả năng phục hồi cộng đồng, bản địa hóa các chương trình hỗ trợ và đảm bảo tính bền vững. Điều này phần nào phản ánh những hạn chế tồn tại trong nhận thức và niềm tin của NKT trước các thảm họa thiên tai và rủi ro tai nạn. Hiện nay, ở Việt Nam, những nghiên cứu về chủ đề này với NKT còn nhiều thiếu hụt.

Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu “Nhận thức của người khuyết tật trong việc bảo vệ bản thân trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai” được thực hiện nhằm nhằm làm rõ ba vấn đề trọng tâm: (1) Người khuyết tật hiện đang nhận thức như thế nào về nguy cơ, mức độ nghiêm trọng, lợi ích, rào cản, tín hiệu hành động trước nguy cơ rủi ro thiên tai, hỏa hoạn như thế nào và các yếu tố nào liên quan đến niềm tin này của họ?. (2) Có sự khác biệt nào về nhận thức nguy cơ, mức độ nghiêm trọng, lợi ích, rào cản, tín hiệu hành động trước nguy cơ rủi ro thiên tai, hỏa hoạn giữa các nhóm mức độ và dạng khuyết tật không? (3) Người khuyết tật hiện đang có niềm tin vào năng lực tự bảo vệ bản thân trước nguy cơ rủi ro thiên tai, hỏa hoạn như thế nào và các yếu tố nào liên quan đến niềm tin này của họ?

Trả lời những câu hỏi nghiên cứu này góp phần cung cấp cơ sở dữ liệu quan trọng để đề xuất các giải pháp chính sách và chương trình hỗ trợ hiệu quả cho NKT để phòng ngừa và chuẩn bị ứng phó với nguy cơ tai nạn và thiên tai tại Việt Nam. Thông qua việc nâng cao nhận thức, trang bị kỹ năng ứng phó và thúc đẩy khả năng chủ động của NKT trong các tình huống nguy cấp, nghiên cứu không chỉ đóng góp vào việc giảm thiểu rủi ro mà còn hướng tới mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong các chính sách phát triển bền vững của Chính phủ. Đảm bảo một môi trường an toàn hơn và nâng cao chất lượng cuộc sống cho NKT trước những thách thức ngày càng gia tăng từ thiên tai và sự cố hỏa hoạn.

Cơ sở lý thuyết

Các khái niệm chính

Nghiên cứu này được xây dựng trên một số khái niệm chính, là nhận thức, người khuyết tật, và bảo vệ bản thân. “Nhận thức”: “là quá trình mà qua đó một cá nhân kiến tạo sự hiểu biết về thế giới, thông qua sự tương tác giữa kinh nghiệm và các cấu trúc tư duy bên trong” (Piaget, 1952). Theo Neisser (1967) định nghĩa “nhận thức” là tất cả các quá trình mà qua đó đầu vào cảm giác được chuyển đổi, giảm bớt, lưu giữ, tái hiện và sử dụng. Mặt khác, “nhận thức được hình thành thông qua các tương tác xã hội và được trung gian hóa bởi các công cụ văn hóa như ngôn ngữ” (Vygotsky, 1978). Trong đề tài này, nhận thức được hiểu là quá trình con người tiếp nhận, hiểu và phản ứng với thông tin từ môi trường xung quanh, thông qua trải nghiệm cá nhân và sự tương tác với cộng đồng, nhằm thích nghi và bảo vệ bản thân trong cuộc sống. Trong điều kiện Việt Nam, người khuyết tật còn gặp nhiều rào cản về tiếp cận thông tin, phương tiện truyền thông chưa thân thiện, và hỗ trợ cộng đồng còn hạn chế, thì nhận thức càng cần được hiểu là một quá trình gắn với văn hóa, xã hội và cơ hội giáo dục.

“Người khuyết tật” (NKT): Theo Luật Người khuyết tật, số 51/2010/QH12, chương I, điều 2 giải thích “Người khuyết tật” là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn (Quốc hội, 2010).

“Bảo vệ bản thân”: Theo Kerr (2015, trích dẫn theo Encyclopedia of Psychology, 2023), tự bảo vệ bản thân là một phản ứng thích ứng với các mối đe dọa về thể chất và cảm xúc, và nó liên quan đến việc học cách nhận biết và phản ứng với các mối đe dọa tiềm ẩn để giảm nguy cơ gây hại; nó không chỉ là tránh hoặc giảm thiểu rủi ro thể chất mà còn bao gồm việc tự bảo vệ cảm xúc, chẳng hạn như thiết lập ranh giới, nhận biết các yếu tố kích hoạt và quản lý cảm xúc. Việc bảo vệ bản thân một cách tự giác giúp các cá nhân xây dựng sự tự tin và khả năng của bản thân để đối phó và quản lý các tình huống khó khăn. Như vậy, năng lực tự bảo vệ bản thân là có thể hiểu là tổng hòa của kiến thức, kỹ năng, và khả năng thực hành mà một người có được nhằm ứng phó hiệu quả với các tình huống khẩn cấp. Do đó, nhận thức về năng lực tự bảo vệ bản thân là yếu tố trung gian then chốt giữa năng lực thực tế và hành vi bảo vệ. 

Lý thuyết nền tảng cho nghiên cứu

Nghiên cứu vận dụng mô hình Niềm tin Sức khỏe (Health Belief Model - HBM, Alyafei & Easton-Carr, 2024) và lý thuyết Niềm tin vào năng lực bản thân (Self-efficacy, Bandura, 1977) để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi ứng phó của người khuyết tật trong thiên tai và hỏa hoạn. Theo HBM, hành vi phòng ngừa chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố: nhận thức nguy cơ, mức độ nghiêm trọng, lợi ích và rào cản khi hành động, tín hiệu thúc đẩy hành động và niềm tin vào năng lực cá nhân. Trên cơ sở lý thuyết HBM, nghiên cứu sử dụng thang đo General Disaster Preparedness Belief Scale (GDPBS) (Ina, Altintas & Dogan, 2018) để đo lường niềm tin và nhận thức của người khuyết tật về việc ứng phó với thiên tai và hỏa hoạn. Thang đo này tiếp cận khái niệm niềm tin về sự chuẩn bị cho thảm họa nói chung qua 6 khía cạnh: (1) nhận thức về nguy cơ, (2) nhận thức về tính nghiêm trọng, (3) nhận thức về lợi ích, (4) tín hiệu hành động, (5) nhận thức về rào cản, (6) niềm tin vào năng lực tự bảo vệ. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn vận dụng Thuyết Niềm tin vào năng lực bản thân (Self-efficacy Theory) của Bandura (1977) làm cơ sở lý thuyết cho nghiên cứu. Lý thuyết này cho rằng niềm tin vào khả năng tự thực hiện hành vi hiệu quả là yếu tố cốt lõi quyết định hành vi ứng phó với rủi ro. Trong bối cảnh thiên tai và hỏa hoạn, niềm tin vào năng lực bản thân giúp NKT chủ động lập kế hoạch, hành động nhanh nhạy và tin tưởng vào khả năng thoát hiểm. Niềm tin này có thể bị chi phối bởi mức độ hỗ trợ xã hội cảm nhận từ gia đình, bạn bè và người quan trọng khác. Hỗ trợ xã hội có thể được coi là yếu tố ảnh hưởng đến hành vi ứng phó của NKT, từ nội lực cá nhân đến nguồn lực xã hội xung quanh (Zimet, Dahlem, Zimet & Farley, 1988).

Dưới đây là khung phân tích của nghiên cứu, thể hiện mối liên hệ giữa các yếu tố nhận thức và niềm tin vào năng lực tự bảo vệ bản thân của người khuyết tật trong bối cảnh rủi ro thiên tai và hỏa hoạn.

z7168847931539_2e07b6a97a85ebbab66a7bb53defb23e_1761746087.webp
Hình 1: Sơ đồ khung phân tích (Mô hình điều chỉnh dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe (HBM) và lý thuyết về cảm nhận hỗ trợ xã hội đa chiều)

Khách thể và phương pháp nghiên cứu

Địa bàn và khách thể nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu được trích xuất từ nghiên cứu trong đề tài được tài trợ bởi Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN trong đề tài mã số SV. 2025.03. Nghiên cứu này sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang. Địa bàn khảo sát được tiến hành tại 4 địa điểm: Hội Người mù và CLB người khuyết tật tại Hà Nội, bằng hai hình thức: (1) tự điền (đối với người khuyết tật vận động); (2) phỏng vấn hỗ trợ (đối với người khiếm thị). Tiêu chí chọn mẫu: từ 18 tuổi trở lên, có khả năng hiểu và phản hồi, tham gia sinh hoạt tại các đơn vị được khảo sát. Tổng cộng thu được 242 phiếu hợp lệ, tỷ lệ phản hồi và đồng thuận tham gia vào nghiên cứu đạt 93,46%.

Bảng 1 mô tả đặc điểm của 242 người khuyết tật tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình là 36,22 (SD = 12,45), trong đó nam chiếm 51,5% và nữ 48,5%. Phần lớn có trình độ học vấn trung học phổ thông trở xuống (62,0%) và chủ yếu là người khiếm thị (67,4%). Về mức độ khuyết tật, 44,2% thuộc nhóm nặng, 26,4% đặc biệt nặng và 29,4% nhẹ.

Bảng 1: Đặc điểm mô tả khách thể nghiên cứu (N = 242)

Đặc điểm nhân khẩu xã hội và khuyết tật

%

M (SD)

Tuổi [min - max]

[18 - 80]

36,22 (12,45)

Giới tính

 

      Nam

51.5

 

      Nữ

48.5

 

Trình độ học vấn cao nhất

 

      Trung cấp/Cao đẳng, Đại học trở lên

38.0

 

      Trung học phổ thông trở xuống

62.0

 

Dạng khuyết tật

 

      Khuyết tật vận động

32.6

 

      Khuyết tật thị giác (khiếm thị)

67.4

 

Mức độ khuyết tật

 

      Nhẹ

29.4

 

      Nặng

44.2

 

      Đặc biệt nặng

26.4

 

Nhận hỗ trợ theo diện chính sách

 

      Có

82.2

 

      Không

17.8

 

                                                     Nguồn: Số liệu khảo sát của nghiên cứu

 

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích tài liệu và điều tra xã hội học sử dụng bảng hỏi. Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng nhằm thu thập, tổng hợp và phân tích các nguồn thông tin thứ cấp liên quan đến nhận thức và hành vi ứng phó của người khuyết tật trong các tình huống thiên tai, hỏa hoạn. Tiêu chí lựa chọn gồm các công trình khoa học, tài liệu học thuật, báo cáo có chỉ số ISSN hoặc từ các nguồn điện tử uy tín, được xuất bản từ năm 1952 - 2024. Tài liệu không đảm bảo độ tin cậy, thiếu cơ sở lý luận, không liên quan chủ đề bị loại trừ. Việc tìm kiếm được thực hiện trên các cơ sở dữ liệu như Google Scholar, JSTOR, Scopus, ScienceDirect, Web of Science… với từ khóa tiếng Việt và tiếng Anh như: “người khuyết tật”, “ứng phó với thiên tai”, “hỏa hoạn”, “nhận thức rủi ro”, “hành vi ứng phó”,... Các tài liệu phù hợp được đưa vào phân tích để hình thành cơ sở lý luận và xác định khoảng trống nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu định lượng được triển khai dưới dạng khảo sát cắt ngang nhằm đo lường nhận thức và niềm tin tự bảo vệ của người khuyết tật trước rủi ro hỏa hoạn và thiên tai. Bảng hỏi được xây dựng dựa trên khung phân tích là Mô hình Niềm tin sức khỏe (Health Belief Model - HBM) và thang đo Niềm tin ứng phó với thiên tai (General Disaster Preparedness Belief Scale (base on Health Belief Model) - GDPBS; Ina, Altintas & Dogan, 2018).Nhận thức về rủi ro và năng lực tự bảo vệ được đo bằng thang đo General Disaster Preparedness Belief Scale (GDPBS) với 06 nhóm nhân tố nhận thức các điều sau: nguy cơ, mức độ nghiêm trọng, lợi ích, rào cản, tín hiệu hành động, năng lực; gồm 31 câu, ví dụ như “Tôi có thể nhận biết những nguy cơ có thể gây ra hỏa hoạn”, “Các chính sách về tình huống khẩn cấp/thảm họa khuyến khích tôi chuẩn bị…”, “Chuẩn bị cho các tình huống khẩn cấp/thảm họa rất hữu ích cho nhu cầu của tôi”. Mỗi nhóm gồm các biến quan sát cụ thể, được đo lường bằng thang Likert 5 mức (1: Hoàn toàn không đồng ý - 5: Hoàn toàn đồng ý). Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá (EFA) cho thấy độ tin cậy của các nhóm thang đo đều đạt yêu cầu (Cronbach’s Alpha dao động từ 0.705 - 0.801).

Hỗ trợ xã hội (gia đình, bạn bè, cộng đồng) được đo với thang đo hỗ trợ xã hội đa chiều (Multidimensional Scale of Perceived Social Support - MSPSS; Zimet, Dahlem, Zimet & Farley, 1988). Thang đo này gồm 12 câu, ví dụ như “Tôi có những người giúp tôi cảm thấy an toàn và bình tĩnh trong các tình huống khẩn cấp”, “Gia đình tôi cố gắng hỗ trợ tôi chuẩn bị các kỹ năng hoặc vật dụng cần thiết để ứng phó với thảm họa”), độ tin cậy 0.942.

Đặc điểm nhân khẩu xã hội: trong nghiên cứu này gồm các biến giới tính (0 = nữ, 1 = nam), dạng khuyết tật (0= khiếm thị; 1 = khuyết tật vận động), mức độ khuyết tật (0 = đặc biệt nặng, 1 = nặng và nhẹ). Ngoài ra, biến độ tuổi là biến liên tục đo bằng đơn vị năm.

Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0 cho thống kê mô tả và các kiểm định thống kê suy luận, như phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích tương quan Pearson, và mô hình hồi quy tuyến tính được biểu diễn trên biến phụ thuộc là năng lực tự bảo vệ bản thân. Các biến dự báo được đưa vào kiểm định mô hình gồm có các biến về đặc điểm nhân khẩu xã hội (độ tuổi, giới tính), đặc điểm khuyết tật, nhận thức về rủi ro và năng lực tự bảo vệ bản thân (6 yếu tố) và sự hỗ trợ xã hội. Mức ý nghĩa thống kê của đề tài là p < 0.05.

Kết quả và thảo luận

Nhận thức về các vấn đề liên quan đến rủi ro người khuyết tật trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai

Kết quả thống kê mô tả cho thấy người khuyết tật có mức nhận thức tương đối cao về nguy cơ thiên tai và hỏa hoạn (M = 3.61) cũng như tính nghiêm trọng của rủi ro từ thiên tai và hỏa họan (M = 3.91), và đặc biệt là nhận thức về lợi ích của các hành động ứng phó (M = 3.95) trên thang đo Likert 5 điểm. Điều này phù hợp với các kết luận trong nghiên cứu của Castro và cộng sự (2017) và Li và cộng sự (2024), trong đó nhấn mạnh rằng người khuyết tật thường ý thức được mức độ dễ bị tổn thương và giá trị của việc chuẩn bị trước thảm họa (Bảng 2).

Bảng 2: Thống kê mô tả nhận thức của người khuyết tật trong phòng ngừa và ứng phó thiên tai, hỏa hoạn (N = 242)

Nhóm nhận thức

Mean

SD

Nhận thức về nguy cơ

3.61

0.87

Nhận thức về tính nghiêm trọng

3.91

0.887

Nhận thức về lợi ích hành động

3.95

0.84

Nhận thức về tín hiệu hành động

3.87

0.804

Nhận thức về rào cản

3.10

0.921

Niềm tin vào năng lực bản thân

2.80

0.776

Nhận thức về hỗ trợ xã hội (đa chiều)

5.41

1.02

Hỗ trợ từ gia đình

5.48

1.13

Hỗ trợ từ bạn bè

5.31

1.14

Hỗ trợ từ cộng đồng

5.46

1.05

Nguồn: Số liệu khảo sát của nghiên cứu

Tiếp đó, mức trung bình của tín hiệu hành động (M = 3.87) cho thấy người khuyết tật có phản ứng khá tích cực với các yếu tố kích thích hành vi, chẳng hạn như thông tin từ bạn bè hoặc khuyến nghị chính sách. Tuy nhiên, điểm số này vẫn cho thấy có sự phân hóa, tương đồng với nghiên cứu của Elisala và cộng sự (2020), khi cho rằng việc tiếp nhận thông tin của người khuyết tật còn phụ thuộc nhiều vào tính phù hợp và khả năng tiếp cận của kênh truyền thông. Ở chiều ngược lại, mức niềm tin vào năng lực bản thân đạt thấp nhất (M = 2.80), cho thấy người khuyết tật còn thiếu tự tin trong khả năng tự bảo vệ. Nhận thức về rào cản cũng ở mức trung bình (M = 3.10), thể hiện họ đã ý thức được những hạn chế trong việc tiếp cận thông tin, kỹ năng ứng phó, cũng như các yếu tố môi trường bất lợi. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của UNDP & MDRI (2023), Cana và cộng sự (2023), Shields và cộng sự (2009), Li và cộng sự (2024) trong đó xác định rào cản thể chất, tâm lý - xã hội và thiếu kỹ năng là yếu tố quan trọng khiến người khuyết tật dễ bị tổn thương hơn trong thiên tai.

Mặt khác, trên thang đo 7 điểm, người tham gia đánh giá rất cao các nguồn hỗ trợ xã hội: từ gia đình (M = 5.48), cộng đồng (M = 5.46) và bạn bè (M = 5.31). Số liệu này củng cố các kết quả của Stough & Kelman (2018), khi cho rằng mạng lưới xã hội là nguồn lực quan trọng giúp người khuyết tật nâng cao khả năng ứng phó. Tuy nhiên, khác với các nghiên cứu quốc tế nhấn mạnh vai trò của các tổ chức hỗ trợ (NGOs), nghiên cứu hiện tại cho thấy người khuyết tật ở Việt Nam chủ yếu dựa vào các mối quan hệ gần gũi (người thân, người nhà, hàng xóm,...), trong khi sự tham gia của các tổ chức chuyên trách còn hạn chế.

Để hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa các nhóm nhận thức trong việc bảo vệ bản thân trước hỏa hoạn và thiên tai ở người khuyết tật, nghiên cứu tiến hành phân tích tương quan Pearson giữa 7 biến trung bình đại diện cho các yếu tố nhận thức, bao gồm: Nhận thức nguy cơ, mức độ nghiêm trọng, lợi ích của hành động, rào cản nhận thức, tín hiệu hành động, năng lực tự bảo vệ và hỗ trợ xã hội (MSPSS). Kết quả được trình bày trong (Bảng 3) cho thấy một số mối quan hệ đáng chú ý.

Bảng 3: Ma trận tương quan giữa các nhóm nhận thức của người khuyết tật (N = 242)

Biến

1. Nguy cơ

2.Mức độ nghiêm trọng

3.Lợi ích

4. Rào cản

5.Tín hiệu HĐ

6.Năng lực TBV

7.Hỗ trợ XH

1. Nguy cơ

1

 

 

 

 

 

 

2. Mức độ nghiêm trọng

0.481**

1

 

 

 

 

 

3. Lợi ích

0.483**

0.949**

1

 

 

 

 

4. Rào cản

-0.201**

0.012

0.049

1

 

 

 

5. Tín hiệu hành động

0.548**

0.786**

0.865**

-0.097

1

 

 

6. Năng lực tự bảo vệ

-0.101

-0.211**

-0.196**

-0.063

-0.178**

1

 

7. Hỗ trợ xã hội (MSPSS)

0.287**

0.456**

0.518**

0.120

0.538**

-0.104

1

Ghi chú:*p<0.05, **p<0.01: tương quan có ý nghĩa thống kê.

       Nguồn: Số liệu khảo sát của nghiên cứu

Trước hết, nhận thức nguy cơ, mức độ nghiêm trọng và lợi ích của hành động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (r > .48, p < 0.05). Điều này cho thấy rằng những người khuyết tật nhận thức thiên tai là nghiêm trọng thường đồng thời tin rằng việc phòng ngừa là cần thiết và mang lại lợi ích. Biến tín hiệu hành động có mối tương quan rất mạnh với lợi ích hành động và mức độ nghiêm trọng (r = 0.786 - 0.865), cho thấy khi cá nhân nhận thức rõ hậu quả và lợi ích của hành động phòng ngừa, họ dễ bị kích thích để hành động hơn. Ngược lại, rào cản nhận thức có mối tương quan âm nhẹ với nhận thức nguy cơ và tín hiệu hành động, phản ánh rằng những người nhận thức nhiều rào cản thường ít tiếp nhận được các động lực dẫn đến hành động. Bên cạnh đó, năng lực tự bảo vệ có tương quan âm nhẹ với phần lớn các yếu tố nhận thức còn lại, cho thấy dù người khuyết tật hiểu rõ nguy cơ và lợi ích nhưng họ vẫn có thể không tự tin vào khả năng bảo vệ bản thân. Điều này nhấn mạnh nhu cầu cần được hỗ trợ thêm về kỹ năng và nguồn lực. Cuối cùng, hỗ trợ xã hội đóng vai trò tích cực, thể hiện sự liên kết có ý nghĩa với hầu hết các nhóm nhận thức (p < 0.05) nhưng lại có xu hướng tiêu cực với năng lực tự bảo vệ. Qua đó cho thấy cần chú trọng môi trường xã hội trong việc nâng cao năng lực ứng phó của người khuyết tật trước rủi ro thiên tai và hỏa hoạn.

Sự khác biệt trong nhận thức về các vấn đề liên quan đến rủi ro người khuyết tật trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai

Kết quả phân tích phương sai một chiều (ANOVA) cho thấy mức độ khuyết tật (nhẹ, nặng, đặc biệt nặng) có ảnh hưởng đáng kể đến nhiều yếu tố trong nhận thức và cảm nhận năng lực tự bảo vệ của người khuyết tật trước các tình huống tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai. Từ Bảng 4 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở các biến nhận thức nguy cơ F (2, 239) = 9.907, p = 0.000), nhận thức lợi ích (F (2, 239)= 6.925, p = 0.001), tín hiệu hành động (F (2, 239) = 7.332, p = 0.001), nhận thức rào cản (F(2, 239) = 19.640, p = 0.000) và hỗ trợ xã hội cảm nhận được (F = 8.994, p < 0.001). Như vậy, nhóm người khuyết tật mức độ đặc biệt nặng có xu hướng thể hiện nhận thức cao hơn ở hầu hết các khía cạnh so với nhóm nặng và nhẹ, đồng thời nhận được sự hỗ trợ xã hội nhiều hơn từ gia đình, bạn bè và cộng đồng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả này có thể là do người khuyết tật mức độ đặc biệt nặng thường phải phụ thuộc nhiều hơn vào môi trường và người khác trong cuộc sống hằng ngày. Điều này củng cố nghiên cứu của Li và cộng sự (2024) khi cho rằng mức độ sẵn sàng của NKT thấp hơn so với người không khuyết tật, do hạn chế về nhận thức rủi ro và năng lực bản thân. Ngược lại, biến nhận thức về năng lực tự bảo vệ không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm (F = 2.342, p = 0.098), cho thấy những khó khăn trong việc triển khai hành vi phòng ngừa là tương đối giống nhau ở mọi mức độ khuyết tật, khiến họ đều cảm thấy thiếu tự tin hoặc không đủ năng lực hành động trong tình huống khẩn cấp. Kết quả này có thấy sự cần thiết của việc xây dựng các chương trình can thiệp và hỗ trợ phù hợp, dựa trên mức độ khuyết tật và đặc điểm riêng của từng nhóm để nâng cao hiệu quả phòng ngừa và ứng phó trong các tình huống khẩn cấp.

Bảng 4: Kết quả kiểm định ANOVA theo mức độ khuyết tật (p <0.001)

Biến

 Mức độ khuyết tật

F

p

Nhẹ

M (SD)

Nặng

M (SD)

 Đặc biệt nặng

M (SD)

Nhận thức nguy cơ

3.62 (0.64)

3.38 (0.85)

3.97 (1.01)

9.907

0.000

Nhận thức lợi ích

3.84(0.80)

3.83 (0.79)

4.28 (0.85)

6.925

0.001

Nhận thức rào cản

2.91 (0.73)

2.83 (0.71)

2.63 (0.90)

2.342

0.098

Nhận thức về tín hiệu hành động

3.81 (0.74)

3.72 (0.76)

4.19 (0.86)

7.332

0.001

Nhận thức về mức độ nghiêm trọng

3.88 (0.83)

3.75 (0.83)

4.23 (0.96)

6.147

0.002

Nhận thức về năng lực tự bảo vệ

2.91(0.73)

2.83 (0.71)

2.80 (0.77)

2.342

0.098

Hỗ trợ xã hội đa chiều

5.04 (0.97)

5.45 (0.92)

5.76 (1.09)

8.994

0.000

Nguồn: Số liệu khảo sát của nghiên cứu

Bên cạnh đó, kiểm định ANOVA để so sánh sự khác biệt về nhận thức và hỗ trợ xã hội giữa người khiếm thị và người khuyết tật vận động cho thấy, trong số các yếu tố được đo lường, chỉ có hai yếu tố thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm người khiếm thị và người khuyết tật vận động. Cụ thể, về nhận thức tính nghiêm trọng của thảm họa, người khiếm thị có mức độ đánh giá cao hơn (M = 4.00, SD = 0.93) so với người khuyết tật vận động (M = 3.75, SD = 0.77), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (F(1, 240) = 4.173, p <0.05). Điều này có thể lý giải do người khiếm thị phải phụ thuộc nhiều vào giác quan phi thị giác, nên mức độ cảm nhận nguy cơ mất an toàn có thể mạnh mẽ hơn, đặc biệt trong các tình huống mà thông tin cảnh báo chủ yếu bằng hình ảnh. Về niềm tin vào năng lực tự bảo vệ bản thân (self-efficacy), người khuyết tật vận động có mức điểm cao hơn (M = 2.98, SD = 0.72) so với người khiếm thị (M = 2.72, SD = 0.79), và sự khác biệt này cũng có ý nghĩa thống kê (F(1, 240) = 6.181, p = .014) (Bảng 5). Cho thấy người khuyết tật vận động có thể cảm thấy tự chủ hơn trong việc thực hiện các hành vi ứng phó, do ít phụ thuộc hơn vào sự trợ giúp bên ngoài trong việc tiếp nhận thông tin hoặc di chuyển trong không gian quen thuộc. Ngoài ra, một số yếu tố khác như nhận thức về lợi ích hành động và tín hiệu thúc đẩy hành động có xu hướng cao hơn ở người khiếm thị, nhưng chưa đạt mức ý nghĩa thống kê.

Bảng 5: Kết quả phân tích ANOVA so sánh sự khác biệt về nhận thức và hỗ trợ xã hội giữa người khiếm thị và người khuyết tật vận động (p<0.05)

Biến

Dạng khuyết tật

F

p

Khuyết tật vận động

M (SD)

Khiếm thị

M (SD)

Nhận thức về nguy cơ

3.61 (0.81)

3.61 (0.91)

0.001

0.977

Nhận thức về tính nghiêm trọng

3.75 (0.77)

4.00 (0.93)

4.173

0.042

Nhận thức về lợi ích

3.81 (0.76)

4.02 (0.86)

3.402

0.066

Nhận thức về rào cản

3.02 (0.83)

3.15 (0.96)

1.056

0.305

Nhận thức về tín hiệu hành động

3.77 (0.68)

3.93 (0.85)

1.962

0.163

Nhận thức về năng lực tự bảo vệ

2.98 (0.72)

2.72 (0.79)

6.181

0.014

Hỗ trợ xã hội đa chiều

5.27 (0.83)

5.48 (1.096)

2.205

0.139

Nguồn: Số liệu khảo sát của nghiên cứu

Qua đó có thể thấy rằng nhóm khiếm thị vẫn đánh giá tích cực về tầm quan trọng của hành động phòng ngừa, mặc dù có thể gặp khó khăn trong triển khai thực tế do hạn chế về tiếp cận thông tin hoặc môi trường. Ngược lại, nhận thức về nguy cơ, rào cản, và cảm nhận hỗ trợ xã hội không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm, cho thấy những yếu tố này không bị chi phối quá nhiều bởi dạng khuyết tật, mà có thể chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cá nhân và môi trường khác.

Niềm tin về năng lực tự bảo vệ bản thân của người khuyết tật trước tai nạn hỏa hoạn và rủi ro thiên tai và các yếu tố liên quan  

Kết quả kiểm tra tương quan Pearson giữa năng lực tự bảo vệ (TBV) với các biến độc lập, bao gồm hỗ trợ xã hội và các yếu tố nhận thức như: nhận thức về nguy cơ, mức độ nghiêm trọng, lợi ích, rào cản, tín hiệu hành động, cho thấy năng lực TBV có mối tương quan nghịch yếu và có ý nghĩa thống kê với các biến: mức độ nghiêm trọng (r = -0.211, p < 0.01), lợi ích nhận thức (r = -0.196, p < 0.01), tín hiệu hành động (r = -0.178, p < 0.01) (Bảng 6).

Bảng 6: Kết quả so sánh tương quan Pearsons giữa năng lực tự bảo vệ (TBV) với các yếu tố tác động (N = 231)

 

Năng lực TBV

Nguy cơ

Mức độ nghiêm trọng

Lợi ích

Rào cản

Tín hiệu hành động

Hỗ trợ xã hội

Năng lực TBV

1

 

 

 

 

 

 

Nguy cơ

-0.101

1

 

 

 

 

 

Mức độ nghiêm trọng

-0.211**

0.481**

1

 

 

 

 

Lợi ích

-0.196**

0.483**

0.949**

1

 

 

 

Rào cản

-0.063

-0.201**

0.012

0.049

1

 

 

Tín hiệu hành động

-0.178**

0.548**

0.786**

0.865**

-0.097

1

 

Hỗ trợ xã hội

-0.104

0.287**

0.456**

0.518**

0.120

0.538**

1

Ghi chú: *p<0.05, **p<0.01

            Nguồn: Số liệu khảo sát của nghiên cứu

Điều này cho thấy khi người khuyết tật nhận thức rõ hơn về mức độ nghiêm trọng của thảm họa, nhận thấy lợi ích của các hành vi phòng ngừa, hoặc nhận được nhiều tín hiệu kêu gọi hành động, thì họ lại có xu hướng cảm thấy bản thân không đủ khả năng để tự bảo vệ. Nguyên nhân có thể xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa nhận thức và hành vi thực tế: người khuyết tật có thể hiểu rõ nguy cơ và tầm quan trọng của việc phòng ngừa, nhưng do hạn chế về thể chất, môi trường không thuận lợi hoặc thiếu kỹ năng, họ vẫn cảm thấy bất lực trong việc triển khai hành vi cụ thể (Cana và cộng sự, 2023; Li và cộng sự 2024). Ngược lại, các yếu tố như nhận thức nguy cơ (r = -0.101, p > 0.05), nhận thức rào cản (r = -0.063, p > 0.05) và hỗ trợ xã hội cảm nhận được (r = -0.104, p > 0.05) không có mối tương quan đáng kể với năng lực tự bảo vệ.

Bảng 7: Mô hình hồi quy tuyến tính các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức và năng lực tự bảo vệ của người khuyết tật trước thiên tai và hỏa hoạn (N = 231)

Biến

Niềm tin về năng lực tự bảo vệ

Beta (β)

SE

p

Đặc điểm nhân khẩu học và khuyết tật

Giới tính (nữ)

-0.013

0.100

0.842

Độ tuổi

-0.005

0.004

0.936

Dạng khuyết tật (khiếm thị)

-0.112

0.109

0.098

Mức độ khuyết tật (đặc biệt nặng)

0.091

0.127

0.216

Hỗ trợ xã hội đa chiều

-0.030

0.062

0.715

Các yếu tố nhận thức

Nhận thức về nguy cơ

0.034

0.072

0.682

Nhận thức về mức độ nghiêm trọng

-0.287

0.192

0.197

Nhận thức về lợi ích

0.174

0.253

0.528

Nhận thức về rào cản

-0.022

0.064

0.778

Nhận thức về tín hiệu hành động

-0.075

0.140

0.612

Thông số tổng quát

R Square

0.072

Adjusted R²

0.030

Ghi chú: p < 0.05 

Nguồn: Số liệu khảo sát của nghiên cứu

Trong mô hình hồi quy nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của người khuyết tật về năng lực tự bảo vệ bản thân (R² = 0.072; Adjusted R² = 0.030) cho thấy các biến đưa vào mô hình chỉ giải thích được khoảng 3% sự biến thiên của niềm tin vào năng lực tự bảo vệ bản thân của người khuyết tật, sau khi kiểm soát các biến độc lập trong mô hình. Nhìn chung, chưa có biến nào đạt mức ý nghĩa thống kê p < 0.05, tuy nhiên dạng khuyết tật (khiếm thị) có xu hướng ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin (β = -0,112; p = 0,098), cho rằng người khiếm thị có thể tự đánh giá năng lực bảo vệ bản thân thấp hơn, nhưng mức ý nghĩa chưa đủ mạnh. Điều này có thể xuất phát từ rào cản về thông tin trực quan, dẫn đến cảm nhận thiếu chủ động hoặc bất an trong các tình huống khẩn cấp (Cana và cộng sự, 2023). Tương tự, nhận thức về mức độ nghiêm trọng của thiên tai có hệ số âm (β = -0,287; p = 0,197), cho thấy xu hướng càng nhận thức thiên tai nghiêm trọng, người khuyết tật càng cảm thấy bất lực, tuy chưa đạt ý nghĩa thống kê. Các biến còn lại như giới tính, độ tuổi, mức độ khuyết tật, hỗ trợ xã hội và các yếu tố nhận thức khác đều không có ảnh hưởng rõ rệt (Bảng 7). Như vậy, niềm tin vào khả năng tự ứng phó không dễ dàng bị chi phối bởi các yếu tố đơn lẻ, mà có thể chịu tác động tổng hợp của nhiều các yếu tố khác, cần tìm hiểu sâu hơn trong các nghiên cứu tiếp theo với cỡ mẫu lớn hơn.

Kết luận

Nghiên cứu tại Hà Nội với 242 khách thể nghiên cứu đã góp phần làm rõ nhận thức và năng lực tự bảo vệ của người khuyết tật trước rủi ro thiên tai và hỏa hoạn. Kết quả cho thấy người khuyết tật (NKT) có nhận thức khá cao về nguy cơ thiên tai, mức độ nghiêm trọng và lợi ích phòng ngừa (M từ 3.61-3.95), tuy nhiên niềm tin vào khả năng tự bảo vệ còn thấp (M = 2.80), đặc biệt ở nhóm khiếm thị. Trong khi đó, nguồn hỗ trợ xã hội từ gia đình, bạn bè và cộng đồng được đánh giá cao (M = 5.41), cho thấy tiềm năng hỗ trợ nâng cao năng lực ứng phó cho NKT. Phân tích tương quan cho thấy mối liên hệ chặt giữa lợi ích, tín hiệu hành động và mức độ nghiêm trọng, trong khi rào cản nhận thức có liên hệ nghịch với các yếu tố thúc đẩy hành vi phòng ngừa. Kết quả ANOVA xác định sự khác biệt đáng kể theo mức độ khuyết tật, với nhóm đặc biệt nặng có nhận thức và năng lực cao hơn; tuy nhiên, không có khác biệt rõ về rào cản nhận thức. Nhóm khiếm thị nhận thức rõ hơn về mức độ nghiêm trọng (F = 4.75, p = 0.031), trong khi người khuyết tật vận động tự tin hơn vào khả năng ứng phó (F = 6.60, p = 0.011). Kết quả mô hình hồi quy cho thấy các yếu tố nhận thức và nhân khẩu học chỉ giải thích 7,2% sự biến thiên năng lực tự bảo vệ (R² = 0.072), trong đó dạng khuyết tật và nhận thức mức độ nghiêm trọng có xu hướng ảnh hưởng tiêu cực nhưng chưa đạt ý nghĩa thống kê. Từ đó, nghiên cứu đề xuất phát triển các chương trình hỗ trợ phù hợp, chú trọng nâng cao kỹ năng ứng phó, củng cố niềm tin và khai thác hiệu quả nguồn lực xã hội dành cho người khuyết tật để ứng phó với các tình huống cấp bách như thiên tai, hỏa hoạn. Các nghiên cứu tiếp theo nên mở rộng  địa bàn và khách thể nghiên cứu, cả về cỡ mẫu và các tiêu chí về dạng khuyết tật để hiểu rõ hơn về sự đa dạng trong nhu cầu và năng lực của người khuyết tật để thiết kế những giải pháp thiết thực hơn.

Từ kết quả nghiên cứu củ đề tài, và dựa trên mô hình HBM và lý thuyết niềm tin vào năng lực bản thân cũng như quyền và lợi ích của người khuyết tật theo CRPD (2014) và Luật NKT Việt Nam (2010), nghiên cứu đề xuất 03 giải pháp từ công tác xã hội nhằm nâng cao năng lực ứng phó của NKT.

 

(1) Tổ chức chương trình tập huấn kỹ năng ứng phó khẩn cấp cho người khuyết tật

(2) Xây dựng Bộ công cụ đánh giá nhanh năng lực ứng phó của người khuyết tật

(3) Dự án “Hỗ trợ  tâm lý và kết nối cộng đồng cho người khuyết tật”

 

Mục tiêu và kỳ vọng

Sau khóa học, người tham gia có thể:

+ nắm được những kiến thức, kỹ năng ứng phó khẩn cấp như sơ cứu cơ bản, sơ tán an toàn, và nhận biết tín hiệu cảnh báo, phù hợp với từng dạng khuyết tật.

+ tự đánh giá khả năng thoát nạn của mình

+ chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm từ những người cùng tham gia, biết cách hình thành mạng lưới hỗ trợ xã hội. 

+ Tạo công cụ thực tiễn để cán bộ công tác xã hội, gia đình hoặc NKT tự đánh giá định kỳ khả năng ứng phó và xác định nhu cầu hỗ trợ

 

Tăng cường năng lực tự chủ, giao lưu và chia sẻ giữa các NKT, thành lập mạng lưới hỗ trợ nhau cải thiện khả năng ứng phó với các tình huống khẩn cấp và tăng cường sự tham gia của họ trong cộng đồng.

 

Mô tả

+ Thiết kế chương trình phù hợp từng nhóm khuyết tật (vận động, thị giác, thính giác…).
+ Kết hợp lý thuyết và thực hành (diễn tập giả định).
+ Cung cấp tài liệu hướng dẫn trực quan, dễ hiểu.

+ Thiết kế bộ câu hỏi ngắn (5-10 phút) đánh giá các mặt: nhận thức nguy cơ, kỹ năng ứng phó, hỗ trợ sẵn có, rào cản cụ thể.

+ Phân loại kết quả theo mức độ ưu tiên can thiệp (cao - trung bình - thấp)

+ Hình thức tiếp cận linh hoạt (trực tiếp/trực tuyến) 

+ Tổ chức các buổi giao lưu, chia sẻ câu chuyện truyền cảm hứng..
+ Mời chuyên gia tư vấn tâm lý, PCCC, phòng chống thiên tai tham gia đối thoại.
+ Thiết lập nhóm kết nối cộng đồng gồm NKT
- gia đình - xã hội (1 tổ chức/cá nhân bên ngoài sẵn sàng hỗ trợ.

Người thực hiện

+ Nhân viên công tác xã hội.
+ Cán bộ Hội người khuyết tật.
+ Chuyên gia phòng cháy chữa cháy và phòng chống thiên tai.
+ Tình nguyện viên hỗ trợ.

+ Nhân viên xã hội

+ Nhân viên công tác xã hội.
+ Chuyên gia tâm lý.
+ Hội người khuyết tật địa phương.
+ Các nhóm thiện nguyện và mạng lưới cộng đồng.

Tài liệu tham khảo

 

Tài liệu tiếng Việt

  1. Cục Cảnh Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ (2024, Jan 11). Thông cáo báo chí về tình hình cháy, nổ và công tác cứu nạn cứu hộ năm 2024. Trang thông tin điện tử Cục cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn cứu hộ. Truy cập ngày 24/4/2025 tại https://canhsatpccc.gov.vn/ArticlesDetail/tabid/193/cateid/1172/id/23183/language/vi-VN/Default.aspx
  2. Malteser International  (2013). Tài liệu hướng dẫn lồng ghép hòa nhập người khuyết tật trong quản lý rủi ro thiên tai dựa vào cộng đồng.
  3. Quốc hội. (2010). Luật Người khuyết tật (Luật số 51/2010/QH12, ngày 17 tháng 6 năm 2010). Văn phòng Quốc hội.
  4. UNISDR. (2013). “Người khuyết tật và thiên tai” cho Ngày Giảm thiểu Rủi ro Thiên tai Quốc tế.

Tài liệu tiếng Anh

  1. Alyafei, A., & Easton-Carr, R. (2024). The health belief model of behavior change. National Library of Medicine.
  2. Bandura, A. (1977). Self-efficacy: Toward a unifying theory of behavioral change. Psychological Review, 84(2), 191-215.
  3. Cana,J., Cheng,D., del Socorro,S.C., Espeleta,K.Y. ,Gabilan,N.A., &Jr.,A. (2023).A Meta-Synthesis on the Experiences of Persons with Disabilities towards Disaster Preparedness. International Journal For Science Technology And Engineering,11(3),870–880.https://doi.org/10.22214/ijraset.2023.49455
  4. Chang, K., Villeneuve, M., Crawford, T., Yen, I., Dominey-Howes, D., & Llewellyn, G. (2023). Disaster preparedness, capabilities, and support needs: The lived experience perspectives of people with disability. Disabilities. 3(4), 648–665. https://doi.org/10.3390/disabilities3040042
  5. Disability and Health Journal, 2(2),86-94.https://doi.org/10.1016/j.dhjo.2009.01.001
  6. Elisala,N., Turagabeci, A., Mohammadnezhad,M., & Mangum,T. (2020). Exploring persons with disabilities preparedness,perceptions and experiences of disasters in Tuvalu. PLoS ONE,15.https://doi.org/10.1371/journal.pone.0241180
  7. Encyclopedia of Psychology. (2023). Self-protection. Encyclopedia of Psychology. https://encyclopedia.arabpsychology.com/self-protection/
  8. Harms, L., Boddy, J., Hickey, L., Hay, K., Alexander, M., Briggs, L., Cooper, L., Alston, M., Fronek, P., Howard, A., Adamson, C., & Hazeleger, T. (2020). Post-disaster social work research: A scoping review of practice evidence. International Social Work, 65, 434-456. https://doi.org/10.1177/0020872820904135
  9. Inal, E., Altintas, K. H., & Dogan, N. (2018). The Development of a General Disaster Preparedness Belief Scale Using the Health Belief Model as a Theoretical Framework. International Journal of Assessment Tools in Education, 5(1), 146-158. DOI: 10.21449/ijate.366825
  10. Kerr, S. L. (2015). Self-protection and resilience. In R. J. Contrada (Ed.), The handbook of stress and health: A guide to research and practice (2nd ed., pp. 127-141). Wiley.
  11. Li, Y., Chen, Y.-F., Wang, Z., & Han, Z. (2024). Risk perception, efficacies and disaster preparedness: A comparison between people with and without disability. Journal of Contingencies and Crisis Management, 32(1), 1–12. https://doi.org/10.1111/1468-5973.12597
  12. Lopez-Garrido, G. (2025, February 19). Bandura’s self-efficacy theory of motivation in psychology. Simply Psychology. https://www.simplypsychology.org/self-efficacy.html
  13. Neisser, U. (1967). Cognitive psychology. Appleton-Century-Crofts.
  14. Piaget, J. (1952). The origins of intelligence in children (M. Cook, Trans.). International Universities Press. (Original work published 1936)
  15. Shields, T., Boyce, K., & McConnell, N. (2009). The behaviour and evacuation experiences of WTC 9/11 evacuees with self-designated mobility impairments. Fire Safety Journal, 44, 881-893. https://doi.org/10.1016/j.firesaf.2009.04.004
  16. Sim, T., & He, M. (2024). Social work capacity in disaster management: An integrated assessment. European Journal of Social Work, 27, 83-95. https://doi.org/10.1080/13691457.2022.2092455
  17. Stough,L. M., & Kelman,I. (2018).People with disabilities and disasters. In H.Rodriguez, J.Trainor, & W.Donner(Eds.), Handbook of Disaster Research (2nd ed.pp.225-242). Cham, Switzerland:Springer.
  18. Villeneuve,M., Crawford,T., &Yen,I. (2023).Disaster preparedness,capabilities,and support needs:The lived experience perspectives of people with disability. Disabilities, 3(4),42.https://doi.org/10.3390/disabilities3040042
  19. Vygotsky, L. S. (1978). Mind in society: The development of higher psychological processes. Harvard University Press.
Trần Thị Duyên, Bùi Mai Anh, Nguyễn Thu Trang - Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội