
Ông Mai Văn Thạch, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lai Châu
PV: Xin ông cho biết những tiềm năng khoáng sản trên địa bàn tỉnh Lai Châu?
Ông Mai Văn Thạch:
Theo tài liệu bàn giao của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam năm 2005, trên địa bàn tỉnh Lai Châu có tổng số 68 mỏ, điểm mỏ khoáng sản, phân bổ 5 nhóm:
Một là, khoáng sản nhiên liệu: Có 02 điểm mỏ than, trữ lượng thấp, chất lượng trung bình.
Hai là, khoáng sản kim loại: Điều tra phát hiện 03 điểm quặng sắt, tài nguyên dự báo 163.000 tấn; có 07 điểm quặng đồng, trong đó có 3 điểm quặng được đánh giá, tài nguyên dự báo 167.000 tấn; chì - kẽm, phát hiện 4 điểm, tài nguyên dự báo 51.000 tấn; có 14 điểm quặng vàng, trong đó có 1 điểm được điều tra đánh giá; Molipđen, có 01 điểm mỏ, trữ lượng dự báo 15.000 tấn; đặc biệt, đất hiếm có 04 điểm mỏ, trong đó có 3 mỏ được thăm dò tính trữ lượng, tổng trữ lượng dự báo trên 21 triệu tấn ôxít đất hiếm, đây là mỏ khoáng sản có tiềm năng lớn nhất tỉnh;
Ba là, khoáng chất công nghiệp: Barit đi kèm các mỏ đất hiếm trữ lượng dự báo 4,2 triệu tấn; fluorit như barit đi kèm các mỏ đất hiếm, tài nguyên dự báo 2,9 triệu tấn.
Bốn là, khoáng sản vật liệu xây dựng, được đánh giá là đa dạng phong phú, trữ lượng lớn. Đá xây dựng chiếm diện tích khá lớn, trong đó có 2 điểm đá granít xây dựng có thể chế biến làm đá ốp lát; đá vôi xi măng, trữ lượng khá lớn, chất lượng tốt, hàm lượng Can xi ô xít (CaO) trên 50% đạt tiêu chuẩn đá vôi xi măng; sét xi măng, 2 điểm sét xi măng, trữ lượng trên 20 triệu tấn; đá phiến lợp, 4 mỏ và điểm mỏ trong đó có 3 mỏ đã được thăm dò khai thác trữ lượng dự báo 14,2 triệu m3; cát cuội sỏi xây dựng, phân bố dọc theo các bãi bồi 2 bên bờ sông suối, diện tích phân bố không lớn, trữ lượng thấp được bồi tụ hàng năm, chỉ phù hợp khai thác thủ công bán công nghiệp đáp ứng nhu cầu vật liệu tại chỗ.
Năm là, nước khoáng, nước nóng, Lai Châu là tỉnh có tiềm năng lớn về nguồn nước khoáng (gồm 2 loại khoáng cacbonat và sunphat), nước nóng. Trên địa bàn tỉnh đã phát hiện 21 điểm nước nóng - nước khoáng, trong đó có 7 nguồn nước khoáng nóng có nhiệt độ > 50oC, còn lại là các nguồn nước khoáng và nước khoáng ấm.
Tuy nhiên, tài liệu chỉ có tọa độ vị trí trung tâm, không có tọa độ các điểm khép góc khu vực mỏ để quản lý, bảo vệ; kết quả điều tra chi tiết, diện tích khu vực được đo vẽ do Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện được lưu tại Trung tâm thông tin, lưu trữ và bảo tàng địa chất, chưa bàn giao cho tỉnh để quản lý, bảo vệ.
PV: Với tiềm năng đã nói trên, Sở Tài nguyên và Môi trường Lai Châu cùng với các cấp ban ngành địa phương đã phát huy vai trò quản lý nhà nước trong công tác quản lý tài nguyên khoáng sản trên địa bàn như thế nào thưa ông?
Ông Mai Văn Thạch:
Thời gian qua, xác định rõ tầm quan trọng của quản lý nhà nước về khoáng sản Sở Tài nguyên và Môi trường đã tham mưu cho Tỉnh ủy Lai Châu ban hành Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày 20/7/2022 thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 4852/KH-UBND ngày 29/12/2022 về thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ và Chương trình hành động số 22-CTr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Cùng với đó, việc tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chương trình hành động của Tỉnh ủy, Kế hoạch của UBND tỉnh và các văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản được thực hiện dưới nhiều hình thức đến các tổ chức, cá nhân và người dân trên địa bàn tỉnh.
Thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đã thực sự tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành Tài nguyên và Môi trường nói riêng và nhân dân trên địa bàn tỉnh nói chung về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đối với sự phát triển nền kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu. Qua đó, đã được nhận thức cơ bản đầy đủ, ngày càng sâu sắc, từng bước tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng về ý thức tự giác chấp hành pháp luật, sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn tài nguyên, cùng chung tay bảo vệ tài nguyên khoáng sản.
Đặc biệt, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, UBND tỉnh đối với lĩnh vực khoáng sản; các Sở, ngành và UBND các huyện, thành phố đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. UBND tỉnh thống nhất quản lý khoáng sản trên địa bàn tỉnh và quy định trách nhiệm của các sở, ngành và UBND cấp huyện, cấp xã và tổ chức, cá nhân có liên quan trong hoạt động bảo vệ, thăm dò, khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh.
Đối với việc thẩm định, trình UBND tỉnh cấp phép hoạt động khoáng sản tuân thủ đúng thẩm quyền theo quy định; hồ sơ thủ tục hành chính được giải quyết theo đúng quy trình, 100% hồ sơ được giải quyết trước hoặc đúng hạn; Sở đã đề xuất và được UBND tỉnh quy định cắt giảm thời gian giải quyết thủ tục hành chính về khoáng sản tối thiểu 20% so với thời gian quy định của Trung ương.
Việc cấp phép hoạt động khoáng sản trên địa bàn chủ yếu thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm nâng cao sự minh bạch, cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, góp phần tăng thu ngân sách. Hoạt động thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản được các ngành, các cấp trong tỉnh quan tâm triển khai thực hiện theo Kế hoạch đề ra. Đồng thời, tổ chức kiểm tra đột xuất các khu vực, địa điểm có dấu hiệu vi phạm trong hoạt động khoáng sản góp phần thiết chặt kỷ cương pháp luật trong hoạt động khoáng sản.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Lai Châu có 33 mỏ khoáng sản có giấy phép khai thác khoáng sản còn hiệu lực, trong đó: Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép khai thác 01 mỏ đá phiến lợp và 01 mỏ đất hiếm; UBND tỉnh cấp 31 giấy phép khai thác khoáng sản gồm 21 mỏ đá, 05 mỏ cát, 02 mỏ sét, 01 mỏ đồng và 02 mỏ chì kẽm; số mỏ đang thực hiện thăm dò là 04 mỏ gồm 01 mỏ chì kẽm, 01 mỏ đá và 02 mỏ cát.
Các điểm mỏ đang hoạt động cơ bản tuân thủ các quy định của pháp luật về khoáng sản. Hoạt động khai thác khoáng sản đã đóng một phần quan trọng trong ngân sách nhà nước tại địa phương từ nguồn thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường,... góp phần nhất định trong phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh và cung cấp nguồn vật liệu cho xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết việc làm cho người lao động tại địa phương.
PV: Vậy đối với những khoáng sản chưa khai thác, công tác bảo vệ được triển khai như thế nào thưa ông?
Ông Mai Văn Thạch:
Để quản lý, bảo vệ có hiệu quả tài nguyên khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn tỉnh, ngăn chặn, xử lý các hoạt động khai thác khoáng sản trái phép, bảo vệ môi trường, sinh thái, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản; đồng thời cụ thể hóa công tác bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn tỉnh theo đúng quy định tại Điều 16, Điều 18 Luật Khoáng sản năm 2010; Điều 17, Điều 18 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ.
Sở Tài ngyên và Môi trường đã tham mưu UBND tỉnh Lai Châu ban hành Quyết định số 1351/QĐ-UBND ngày 02/11/2018 về việc phê duyệt Phương án bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn tỉnh Lai Châu và Quyết định số 07/2023/QĐ-UBND ngày 05/4/2023 Quy định quản lý khoáng sản trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Nội dung của Quy định, phương án đã quy định rõ trách nhiệm cho các Sở, ngành và chính quyền địa phương trong việc bảo vệ khoáng sản chưa khai thác, đặc biệt quan tâm đến trách nhiệm của UBND cấp huyện, cấp xã; bên cạnh đó UBND tỉnh đã ký Quy chế phối hợp trong công tác quản lý, bảo vệ khoáng sản tại khu vực giáp ranh với các tỉnh: Yên Bái, Lào Cai, Điện Biên.
Sau khi Quy định, phương án, Quy chế phối hợp được phê duyệt, các Sở, ngành và chính quyền địa phương đã nghiêm túc triển khai thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ khoáng sản trên địa bàn tỉnh; thường xuyên kiểm tra các khu vực có nguy cơ khai thác khoáng sản trái phép để kịp thời xử lý.
Đơn cử, năm 2022 UBND tỉnh đã chỉ đạo tổ chức lực lượng đánh sập các hầm lò khai thác vàng trái phép tại huyện Mường Tè và huyện Sìn Hồ; đến nay trên địa bàn tỉnh không còn tình trạng khai thác khoáng sản trái phép trở thành điểm nóng, tập trung gây mất an ninh trật tự.
PV: Như ông chia sẻ, Lai Châu đã làm tốt công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản. Vậy, ông có thể chia sẻ thêm về việc xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực khoáng sản năm 2023 và 2024 trên địa bàn?
Ông Mai Văn Thạch:
Năm 2023, các cơ quan chức năng của tỉnh Lai Châu đã tham mưu xử phạt, xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực khoáng sản đối với 11 tổ chức và 18 cá nhân với tổng số tiền 1.320.680.112 đồng. Đến hết tháng 10/2024, Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường xử phạt vi phạm hành chính về lĩnh vực khoáng sản đối với 02 tổ chức với số tiền là 135 triệu đồng.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm như: Chưa thuê đất trong hoạt động khoáng sản, khai thác ra ngoài phạm vi khu vực mỏ, chưa có xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường, khai thác không đúng phương pháp khai thác, chưa lắp đặt trạm cân, đã kịp thời xử lý, chấn chỉnh các hành vi vi phạm trong hoạt động khoáng sản và giúp các tổ chức hoạt động khoáng sản nâng cao nhận thức các quy định của pháp luật về khoáng sản, góp phần vào sự ổn định trật tự an ninh - xã hội và phát triển kinh tế bền vững của tỉnh.
PV: Bên cạnh những mặt thuận lợi nêu trên, công tác quản lý, bảo vệ khoáng sản trên địa bàn tỉnh có khó khăn gì thưa ông?
Ông Mai Văn Thạch:
Trước hết, pháp luật về khoáng sản hiện hành quy định không cấp phép khai thác cát, sỏi trong phạm vi lòng hồ và chưa quy định, hướng dẫn quản lý, thu hồi cát sỏi từ quá trình nạo vét lòng hồ nên gặp khó khăn về nguồn cát xây dựng.
Bên cạnh đó, nhu cầu cát xây dựng các công trình nhà nước cũng như các công trình dân sinh trên địa bàn ngày một tăng, trong khi nguồn cung cấp vật liệu xây dựng của các tổ chức được cấp phép có hạn, nên chưa đáp ứng được nhu cầu. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc người dân còn tự ý khai thác cát trái phép quy mô nhỏ trên các đoạn sông, suối.
Mặt khác, hiện các cơ quan quản lý ở Trung ương chưa ban hành bộ tiêu chí để xác định đá làm vật liệu xây dựng (đá ốp lát), đá mỹ nghệ, đá làm vật liệu xây dựng thông thường (làm cốt liệu trong xây dựng).
Do đó, còn gặp khó khăn trong công tác quản lý khoáng sản đá. Đồng thời, chưa có quy định về cấp lại giấy phép thăm dò khoáng sản, giấy phép khoáng sản nên gặp khó khăn về quản lý những mỏ chưa thực hiện xong thăm dò, trữ lượng khoáng sản còn, nhưng không kịp làm thủ tục gia hạn theo quy định.
Hiện trên địa bàn tỉnh Lai Châu có một số điểm mỏ được Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp phép thăm dò đã nhiều năm nhưng chưa phê duyệt trữ lượng và chưa cấp phép khai thác gây khó khăn cho công tác bảo vệ khoáng sản nhất là đối với khoáng sản vàng do có giá trị cao và sản phẩm dễ cất giấu, tiêu thụ.
Cùng với đó, hồ sơ, thủ tục cấp phép khai thác khoáng sản ở khu vực có dự án đầu tư xây dựng công trình nhưng không phục vụ cho công trình đó còn phức tạp, không phù hợp với loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường; đất làm vật liệu san lấp dôi dư từ hoạt động phải đào, tạo mặt bằng của công trình.
PV: Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhín đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phê duyệt tại Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu như thế nào và ông có kiến nghị gì với trung ương?
Ông Mai Văn Thạch:
Theo Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phê duyệt tại Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023, trên địa bàn tỉnh Lai Châu có các loại khoáng sản được quy hoạch gồm:
Khoáng sản đất hiếm: Trên địa bàn tỉnh có 06 khu vực mỏ được quy hoạch thăm dò, khai thác thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường với tổng diện tích là 3.077,2 ha, trữ lượng huy động vào khai thác khoảng 159.483 nghìn tấn quặng nguyên khai tương đương với 4.794 nghìn tấn đất hiếm.
Khoáng sản vàng: Tỉnh Lai Châu có 05 khu vực mỏ được quy hoạch thăm dò, khai thác thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường với tổng diện tích là 2.869,4 ha và trữ lượng huy động vào khai thác đạt khoảng 6.820 kg vàng (kim loại).
Nước khoáng, nước nóng, có 21 nguồn nước khoáng, nước nóng được quy hoạch thăm dò, khai thác thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ Tài nguyên và Môi trường với trữ lượng huy động vào khai thác đạt khoảng 4.200 m3/ngày.
Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh về triển khai Quyết định số 866/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ, Sở Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Công văn số 2073/STNMT-KSN ngày 04/8/2023 đề nghị: các Sở, ban, ngành, địa phương chủ động đề xuất lập, điều chỉnh các quy hoạch chuyên ngành đảm bảo không trùng với các khu vực khoáng sản đã được quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản.
UBND các huyện và thành phố rà soát, bổ sung các khu vực mỏ vào Quy hoạch, Kế hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030 cấp huyện. Các khu vực thăm dò, khai thác có chiếm diện tích lớn như khoáng sản vàng, đất hiếm thường phân bố ở các khu vực đồi núi hẻo lánh, xa hoặc ít dân cư, nên khi đưa vào khai thác cơ bản ít tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội của tỉnh.
Lai Châu được đánh giá là tỉnh có tiềm năng về khoáng sản nhất là khoáng sản đất hiếm có giá trị kinh tế cao; để sớm khai thác được tiềm năng thế mạnh của tỉnh, chúng tôi đề nghị các Bộ, ngành trung ương sớm triển khai quy hoạch đưa các mỏ vào khai thác chế biến, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Nhất Nam – Đỗ Hùng (thực hiện)