Phát triển kinh tế dựa vào rừng ngập mặn để phát triển bền vững và giảm thiểu với biến đổi khí hậu

Thứ năm, 22/8/2024, 18:07 (GMT+7)
logo Rừng ngập mặn tại Đồng bằng Sông Cửu long (ĐBSCL) đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sinh kế, an sinh cho cộng đồng dân cư ven biển.

Phát triển kinh tế dựa vào rừng ngập mặn để phát triển bền vững và giảm thiểu với biến đổi khí hậu
Quang cảnh buổi hội thảo

Sáng ngày 22/8, tại TP. Hồ Chí Minh đã diễn ra hội thảo “Đánh giá tiềm năng của các mô hình phát triển kinh tế dựa vào rừng ngập mặn để phát triển bền vững và giảm thiểu với biến đổi khí hậu” do trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh và Đại học Adelaide (Úc) đồng tổ chức.

Tham dự hội thảo có đại diện lãnh đạo của Sở ngành các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu long (ĐBSCL), các nhà khoa học, chuyên gia và nhiều nhóm nghiên cứu về các lĩnh vực liên quan đến vấn đề xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu.

Hội thảo xoay quanh những thông tin khoa học về xây dựng và đánh giá hiệu quả của các mô hình phát triển kinh tế đa ngành, liên quan đến rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển các chính sách, chương trình và dự án phù hợp nhưng lại rất thiếu, tản mạn và không mang tính tổng thể.

Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS. TS Nguyễn Tất Toàn - Hiệu trưởng trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh thông tin, Đồng bằng Sông Cửu Long không chỉ là vùng trọng yếu về kinh tế và chính trị của Việt Nam, mà còn sở hữu diện tích rừng ngập mặn lớn nhất trên cả nước, những khu vực rừng ngập mặn này đóng vai trò quan trọng trong việc thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu, xây dựng nền kinh tế xanh và phát thải thấp, phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sinh kế, an sinh cho cộng đồng dân cư ven biển.

Cư dân ven biển cần dựa vào rừng ngập mặn để phát triển bền vững và giảm thiểu biến đổi khí hậu
PGS. TS Nguyễn Tất Toàn thông tin về công tác phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sinh kế cho cộng đồng dân cư ven biển

Theo Nghị quyết 81/2023/QH15 về định hướng phân vùng kinh tế - xã hội theo quy hoạch tổng thể quốc gia, đây là khu vực có vị thế chính trị, kinh tế và quân sự quan trọng của Việt Nam và là trung tâm sản xuất nông nghiệp, kinh tế biển lớn nhất cả nước. Vùng ĐBSCL sở hữu 50% sản lượng lúa; 95% lượng gạo xuất khẩu; 65% sản lượng nuôi trồng thuỷ sản; 60% lượng cá xuất khẩu; 70% các loại trái cây của Việt Nam và do vậy đóng góp tỉ trọng lớn đối với GDP quốc gia.

“Bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn cũng là một trong những ưu tiên của Việt Nam trong KADA về lộ trình thực hiện Cam kết tự nguyện quốc gia và Thỏa thuận Paris về xây dựng và đánh giá hiệu quả của các mô hình phát triển kinh tế đa ngành liên quan đến rừng ngập mặn, đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển các chính sách, chương trình và dự án phù hợp nhưng lại rất thiếu, tản mạn và không mang tính tổng thể”. PGS TS Nguyễn Tất Toàn cho biết thêm.

Ngoài ra, chương trình hội thảo còn đóng vai trò quan trọng bởi đây là diễn đàn quy tụ các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia trong và ngoài nước để thảo luận các vấn đề quan trọng trên. Hội thảo cũng hướng tới việc chia sẻ thông tin cập nhật từ các kết quả, nghiên cứu ban đầu trong dự án và kết nối các chuyên gia và các bên liên quan đến vấn đề này trong và sau hội thảo.

“Chúng tôi tin tưởng rằng với sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, các chuyên gia Australia và các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam, dự án sẽ đóng góp tích cực trong lộ trình thiết chặt mối quan hệ chiến lược giữa Việt Nam và Australia trong thời gian tới”. Ông Toàn nhấn mạnh.

Trao đổi về thực trạng, chính sách và các ưu tiên của Việt Nam về biến đổi khí hậu và lộ trình xây dựng các mô hình phát triển kinh tế dựa vào rừng ngập mặn tại ĐBSCL, ông Nguyễn Nam Sơn - Đại diện Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNN) cho biết, theo thống kê Việt Nam có bờ biển trải dài từ Bắc đến Nam, với 28 tỉnh, thành phố có rừng ngập mặn, có diện tích khoảng 160.000 ha rừng ngập mặn. Trong đó có khoảng 151.000 ha rừng đã công bố diễn biến rừng hàng năm, khoảng 78.000 ha rừng ngập mặn được trồng mới nhưng chưa được thống kê vào diện tích công bố hàng năm…

Cư dân ven biển cần dựa vào rừng ngập mặn để phát triển bền vững và giảm thiểu biến đổi khí hậuÔng Nguyễn Nam Sơn - Đại diện Cục Lâm nghiệp (Bộ NN&PTNN) chia sẻ về thực trạng trong phát triển rừng ngập mặn tại ĐBSCL

Theo phân bổ hiện nay cho thấy, rừng ngập mặn tại ĐBSCL là lớn nhất, chiếm trên 50% diện tích rừng ngập mặn cả nước, kế đến là vùng Đông Nam Bộ (trong đó tỉnh Đồng Nai có diện tích rừng ngập mặn lớn), vùng Đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh ven biển miền Trung… Gần đây nhất, năm 2023 theo số liệu thống kế của Bộ NN&PTNT cho thấy, hiện tại tỉnh Cà Mau có diện tích rừng ngập măn lớn nhất cả nước, tiếp theo là TP. Hồ Chí Minh, Quảng Ninh và một số tỉnh khác.

Đối với công tác quản lý rừng ngập mặn hiện nay, nhiều nhất là do các Ban quản lý rừng phòng hộ đặc dụng chiếm đến 62% (các tỉnh miền Trung và Nam Bộ), còn lại là địa phương do các UBND cấp xã, các hộ gia đình, cộng đồng và các chủ quản lý khác chiếm 7% (chủ yếu các tỉnh miền Bắc) đang thực hiện quản lý.

Một trong những giải pháp quan trọng để Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 - “net zero” vào năm 2050 là phải luôn quan tâm đến nguồn lực bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là rừng ngập mặn. Do đó, khi thực hiện hiệu quả các biện pháp bảo vệ rừng, các khu rừng ngập mặn sẽ càng phát huy giá trị, đóng góp tích cực vào quá trình triển khai kế hoạch thích ứng quốc gia và mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính.

"Trường hợp tỉnh Cà Mau với diện tích rừng ngập mặn lớn nhất cả nước hiện nay là một điển hình về những giá trị rừng ngập mặn mang lại, trong đó, giá trị trực tiếp đem lại là củi, gỗ, nuôi trồng thuỷ sản, cảnh quan, các dịch vụ khác… Và giá trị gián tiếp là về phòng hộ ven biển và những vấn đề ngập mặn, môi trường liên quan". Ông Nguyễn Nam Sơn nêu vấn đề.

Phát triển kinh tế dựa vào rừng ngập mặn để phát triển bền vững và giảm thiểu với biến đổi khí hậu
Công tác quản lý rừng, đặc biệt là rừng ngập mặn đang chịu nhiều áp lực

Nhờ có rừng ngập mặn nên nhiều loài thủy hải sản có giá trị kinh tế cao sinh trưởng và phát triển một cách tự nhiên. Hơn nữa, rừng ngập mặn vượt trội hơn so với hầu hết các loại rừng khác về khả năng lưu giữ carbon lớn. Điều này mở ra nhiều cơ hội cho các địa phương có rừng ngập mặn chú trọng đến việc bảo vệ, phát triển rừng ngập mặn, bảo vệ đa dạng sinh học, cũng như bảo vệ sinh kế cho người dân.

Nhưng nếu xét riêng về tình hình biến đổi khí hậu thì đây không chỉ là vấn đề của tỉnh thành hay cả nước, mà đây là câu chuyện mang tính toàn cầu. Do đó, thích ứng với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ hàng đầu, cần sự chung tay của các địa phương và quốc gia có rừng ngập mặn cần được bảo vệ, khôi phục và phát triển một cách bài bản, hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia, cũng cần có những hướng dẫn cụ thể để việc phát triển sinh kế này không ảnh hưởng đến diện tích rừng, phá vỡ quy hoạch hay việc nuôi trồng không đúng kỹ thuật, nhu cầu thị trường.

Nguyễn Kiên