Trong 10 năm trở lại đây, nhiều công nghệ, thiết bị mới đã được đầu tư, nghiên cứu đưa vào ứng dụng trong tác nghiệp góp phần nâng cao chất lượng công tác dự báo khí tượng thủy văn. Ngành đã theo dõi và dự báo sát, kịp thời, xác các hiện tượng thời tiết nguy hiểm, giúp chúng ta giảm thiểu thiệt hại tài sản, tính mạng;...chất lượng các bản tin dự báo luôn đạt và vượt mức chỉ tiêu đề ra. Xác định công tác khí tượng, thủy văn đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh, Ngành luôn có các định hướng chiến lược và giải pháp phát triển hiệu quả.

Ngành KTTV đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng AI
Ngành có bước phát triển vượt bậc, theo dõi và dự báo sát, kịp thời thiên tai thời tiết
Hệ thống dự báo, cảnh báo KTTV quốc gia hiện nay bao gồm hệ thống quan trắc nội địa, thu thập số liệu quan trắc và dự báo quốc tế, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống xử lý số liệu và dự báo. Dự báo nghiệp vụ tại Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia và 07 Đài KTTV khu vực cũng như 56 Đài KTTV các tỉnh. Với việc ứng dụng và tiếp tục phát triển hệ thống mô hình dự báo thời tiết số trị, các đơn vị dự báo nghiệp vụ trực thuộc Tổng cục KTTV đã tiến hành dự báo tới các địa điểm cụ thể như thị trấn, thị xã, thành phố, với khoảng 600 điểm.
Chất lượng các bản tin dự báo luôn đạt và vượt mức chỉ tiêu đề ra. Trong 10 năm qua (2013 – 2023), Ngành đã theo dõi và dự báo sát, kịp thời hơn 300 đợt không khí lạnh; 60 áp thấp nhiệt đới; 114 cơn bão; khoảng 150 trận lũ; 223 đợt nắng nóng diện rộng; 317 đợt mưa lớn diện rộng. Công tác dự báo, cảnh báo thiên tai đã được Thủ tướng Chính phủ biểu dương, ghi nhận nhiều năm liền; nhờ công tác dự báo sớm, kịp thời của Ngành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo Quốc gia về Phòng, chống thiên tai, các cơ quan trung ương và địa phương đã có hành động quyết liệt, hiệu quả từ sớm nên đã giảm thiểu được nhiều thiệt hại, cụ thể: thiệt hại về người giảm 54%, thiệt hại về tài sản giảm 78% so với trung bình 10 năm vừa qua,...
Mạng lưới quan trắc và truyền tin của Việt Nam đã được quan tâm và đầu tư nhiều trang thiết bị. Cụ thể có 186 trạm khí tượng bề mặt, 2.500 điểm đo mưa tự động; 14 trạm đo bức xạ, 232 trạm thủy văn, 26 trạm KTTV biển, 10 radar thời tiết, 179 trạm quan trắc môi trường không khí và nước và 18 trạm định vị sét. Tổng cục KTTV luôn xác định những nhiệm vụ trọng tâm, coi hiện đại hóa Ngành là mục tiêu Chiến lược. Ngành sẽ tập trung hiện đại hóa mạng lưới quan trắc cho khu vực phía Bắc, vùng núi cao nơi thường xảy ra mưa, bão với cường độ lớn, lũ, lũ quét, sạt lở đất và hiện chưa có trạm quan trắc tự động mang tính chất đồng bộ; tăng cường các trạm quan trắc KTTV, hải văn tự động dọc ven biển, hải đảo nơi mạng lưới trạm còn thưa,… số lượng trạm được đầu tư hiện đại hóa và tăng cường dự kiến khoảng 150 trạm. Với nỗ lực không ngừng của Tổng cục KTTV trong việc tăng cường dự báo, cảnh báo sớm, thông tin KTTV không chỉ có vai trò quan trọng góp phần chủ động phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, bảo vệ cuộc sống và sinh kế của người dân mà hiện nay thông tin, dữ liệu KTTV là đầu vào quan trọng cho các ngành, lĩnh vực KT-XH và góp phần tích cực trong việc đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia.
Một số định hướng phát triển Ngành
Với vai trò, đóng góp quan trọng kể trên, trong các văn kiện Đại hội từ Đại hội VII đến Đại hội XIII, Đảng ta đều chỉ rõ những định hướng, động lực phát triển ngành KTTV. Theo Chiến lược Chiến lược phát triển ngành KTTV: Mục tiêu chung đến năm 2030 phát triển Ngành đạt trình độ KHCN tiên tiến của khu vực châu Á; đủ năng lực cung cấp thông tin, dữ liệu KTTV đầy đủ, tin cậy, kịp thời đáp ứng các yêu cầu phát triển KT-XH, PCTT, thích ứng với BĐKH, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia; hình thành và phát triển được thị trường dịch vụ, công nghệ KTTV phục vụ đa mục tiêu, đa lĩnh vực. Chiến lược đặt ra mục tiêu đến năm 2030 tự động hóa đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao; phát triển, hoàn thiện mạng lưới trạm KTTV phục vụ nhu cầu của bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực có liên quan; 100% công trình phải quan trắc KTTV được thực hiện quan trắc và cung cấp thông tin, dữ liệu KTTV theo quy định của pháp luật.
Về dự báo, cảnh báo KTTV, Chiến lược phấn đấu dự báo KTTV hàng ngày trong điều kiện bình thường có độ tin cậy đạt 80-85%. Dự báo đủ độ tin cậy quỹ đạo và cường độ áp thấp nhiệt đới trước 2-3 ngày; tăng thời hạn cảnh báo quỹ đạo và cường độ bão trước 3-5 ngày. Dự báo, cảnh báo lũ đủ độ tin cậy cho các hệ thống sông lớn ở Bắc Bộ trước 2-3 ngày, ở Trung Bộ trước 1-2 ngày, ở Nam Bộ trước 10 ngày; tăng chất lượng dự báo định lượng mưa lớn trước 2-3 ngày lên thêm 5-10% so với năm 2020; cảnh báo đủ độ tin cậy lũ quét, sạt lở đất trước 6-24 giờ; tăng thời hạn dự báo thời tiết đến 10 ngày, cảnh báo xu thế diễn biến một số hiện tượng KTTV nguy hiểm đến 1 tháng, cảnh báo hiện tượng ENSO và tác động đến Việt Nam, hạn hán, xâm nhập mặn từ 3 tháng đến 1 năm.
Các Nghị quyết của Trung ương về KTTV đều khẳng định việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường là những vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tầm ảnh hưởng lớn, quan hệ, tác động qua lại, cùng quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Đồng thời, là cơ sở, tiền đề cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), bảo đảm quốc phòng - an ninh (QP-AN) và an sinh xã hội. Đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị; là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp, cộng đồng dân cư; trong đó, nhà nước giữ vai trò chủ đạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự tham gia giám sát của toàn xã hội.
Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KTTV đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xuyên suốt Chỉ thị nhìn nhận, đánh giá công tác KTTV là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, thường xuyên, liên tục của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; đồng thời là động lực và trọng trách của ngành KTTV, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Ngay sau khi Chỉ thị số 10 được ban hành, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 497-QĐ/CP về ban hành Kế hoạch triển khai Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác KTTV đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để hoàn thành mục tiêu đề ra, Ngành KTTV tiếp tục đẩy mạnh, phát triển đồng bộ theo hướng hiện đại hóa; lấy việc đầu tư cho KHCN và đào tạo nguồn nhân lực làm giải pháp chủ yếu để phát triển trên cơ sở kế thừa và phát huy tối đa nguồn lực hiện có; khai thác triệt để thành tựu KHCN trong nước, đồng thời ứng dụng chọn lọc những thành tựu KHCN tiên tiến trên thế giới. Hiện đại hóa và tự động hóa hệ thống thông tin truyền dẫn số KTTV, nâng cao tốc độ và mở rộng băng thông, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghệ dự báo và trao đổi số liệu trong và ngoài ngành. Ngành KTTV tập trung nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo KTTV nâng cao tính chính xác, độ tin cậy của các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai xây dựng hệ thống quan trắc hiện đại, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường công nghệ dự báo, năng lực chuyên môn, đặc biệt là xây dựng và đưa vào dự báo nghiệp vụ dụng mô hình dự báo bão, mưa lớn của Việt Nam; xây dựng hệ thống giám sát BĐKH, hạn hán, xâm nhập mặn. Ngành tăng cường đào tạo cán bộ dự báo, mở rộng hợp tác quốc tế, cải tiến thay đổi nội dung, hình thức truyền tin thiên tai cụ thể như tiếp tục đầu tư xây dựng các hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, phát triển công nghệ dự báo số để tăng cường năng lực dự báo từ hạn cực ngắn đến hạn dài; xây dựng hệ thống mô hình khu vực phân giải cao, đồng hóa số liệu từ nguồn số liệu radar thời tiết, vệ tinh, trạm thám không. Xây dựng các hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, chi tiết hóa các bản tin dự báo KTTV, trong đó đặc biệt chú trọng chi tiết hóa tác động của thiên tai với các lĩnh vực KT-XH và các đối tượng chịu rủi ro thiên tai.
Ngành chú trọng xây dựng, hoàn thiện và giám sát việc thực hiện các quy trình dự báo từ Trung ương đến các Đài KTTV khu vực, Đài KTTV tỉnh, thành phố; tăng cường mật độ trạm quan trắc trên biển, số liệu bão trên biển, các trạm đo mưa tự động trên khu vực có địa hình phức tạp, các trạm quan trắc cao không, radar. Trong tương lai, xem xét đến khả năng bay thám sát bão bằng máy bay hoặc tên lửa nhằm xác định vị trí, cường độ, tốc độ, hướng di chuyển bão chính xác hơn; đầu tư nâng cấp hệ thống tính toán hiệu năng cao; hoàn thiện và đồng bộ hệ thống thông tin KTTV.
Trong thời đại xu hướng công nghệ 4.0, để đưa ra những sản phẩm dự báo chính xác và kịp thời, các thiết bị máy móc đã được nâng cấp với công suất cao hơn, tự động hóa nhiều hơn, và vấn đề mấu chốt là đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao. Các cán bộ KTTV sẽ làm việc với hàng trăm nguồn dữ liệu thông tin khác nhau từ các trạm quan trắc, từ vệ tinh, từ radar, từ các nguồn chia sẻ của bạn bè quốc tế, sẽ cần giải bài toán xử lý số liệu lớn. Do vậy phải nắm vững và làm chủ cơ sở dữ liệu lớn (Big data) và các phương pháp đồng hóa xử lý số liệu, khai thác sử dụng số liệu (Data mining), ứng dụng của trí tuệ nhân tạo trong từng khâu của quy trình tác nghiệp.
Sự phát triển mạnh mẽ của KHCN trong cuộc Cách mạng KHCN lần thứ 4 với Big data, trí tuệ nhân tạo,... tương ứng với quy mô nền kinh tế nước ta ngày càng lớn thì yêu cầu hiện đại hóa ngành KTTV, bảo đảm công tác dự báo, cảnh báo KTTV nâng cao độ tin cậy, tính kịp thời và đầy đủ nội dung là yêu cầu cấp thiết. Việc quản lý, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu KTTV tiếp tục được định hướng thay đổi cách tiếp cận theo hướng là phương tiện, tài nguyên số, một trong những nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế, PCTT, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.
Ngoài những nỗ lực trên của ngành KTTV, thì một yếu tố quan trọng khác cũng góp phần không nhỏ vào sự thành công trong tiến trình phát triển, hiện đại hóa ngành KTTV chính là sự quan tâm, chung tay góp sức của các cấp, các ngành và chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ, đầu tư cơ sở vật chất, phối hợp tuyên truyền, phổ biến, lan tỏa sâu rộng Luật KTTV và kiến thức KTTV đến với cộng đồng đây là sự lan tỏa quan trọng để Luật KTTV thực sự đi vào cuộc sống từ đó gián tiếp góp phần tăng cường hiệu quả phục vụ PCTT, thúc đẩy phát triển KT-XH của đất nước.
TRỌNG HIẾU
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 13 (Kỳ 1 tháng 7) năm 2024