Phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó hiệu quả tác động của biến đổi khí hậu

Thứ năm, 30/12/2021, 08:08 (GMT+7)
logo Theo Văn phòng thường trực, Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai, từ đầu năm 2021 đến nay, Việt Nam đã xảy ra 8 cơn bão, 3 áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông, 109 trận động đất nhẹ, 316 trận mưa đá, dông lốc, sét; 140 trận mưa lớn, lũ cục bộ, trong đó có 9 trận lũ ống, lũ quét, 157 vụ sạt lở bờ sông, 7 đợt nắng nóng và 6 đợt không khí lạnh, gió mùa đông bắc; ước tính giá trị thiệt hại khoảng 1.428 tỷ đồng,… Tác động của biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, nên cần có các giải pháp hữu hiệu trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai là việc làm cấp thiết.

Phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó hiệu quả tác động của biến đổi khí hậu

Tại khu vực ĐBSCL và miền Trung, hạn hán lại tiếp tục tái diễn trong năm 2019-2020 với quy mô lớn và mức độ khốc liệt hơn so với đợt hạn hán, xâm nhập mặn năm 2016. Trong năm 2020, nguồn nước trên các sông, suối khu vực Trung Bộ và Tây Nguyên suy giảm và thiếu hụt so với trung bình nhiều năm cùng kỳ từ 35% đến 70%, một số sông thiếu hụt trên 80%. Thống kê gần đây cho thấy, trong 10 năm trở lại đây, đã có 1,7 triệu người đã di cư ra khỏi ĐBSCL, trong khi chỉ có 700.000 người mới chuyển đến, tỷ lệ di cư này là gấp hai lần trung bình cả nước. Theo kịch bản BĐKH, nước biển dâng và các nghiên cứu mới đây cho thấy, xu hướng gia tăng BĐKH là không thể tránh khỏi trong tương lai. Đến năm 2100, nhiệt độ trung bình năm ở Việt Nam có thể tăng từ 0,60C - 40C. Lượng mưa có xu hướng tăng tập trung vào mùa mưa và giảm vào mùa khô. Nước biển dâng từ 36-100 cm thay đổi theo kịch bản và vị trí địa lý. Đến năm 2100, nếu mực nước biển dâng 100 cm, 6,3% diện tích đất của Việt Nam sẽ bị ngập lụt, 4% hệ thống đường sắt, 9% hệ thống đường quốc lộ và 12% hệ thống đường tỉnh lộ sẽ bị ảnh hưởng; trên 10% diện tích vùng Đồng bằng sông Hồng và tỉnh Quảng Ninh; trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền Trung và trên 20% diện tích TP. Hồ Chí Minh có nguy cơ bị ngập. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp đến trên 9% dân số vùng Đồng bằng sông Hồng và tỉnh Quảng Ninh, gần 9% dân số các tỉnh ven biển miền Trung và khoảng 7% dân số TP. Hồ Chí Minh. Riêng ĐBSCL sẽ có khoảng 39% diện tích bị ngập, ảnh hưởng gần 35% dân số, nguy cơ mất đi 40,5% tổng sản lượng lúa của cả vùng.

Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới và Quỹ Toàn cầu về Giảm nhẹ và Phục hồi thiên tai mới đây, có khoảng 12 triệu người dân ở các tỉnh ven biển có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi ngập lụt và hơn 35% các khu dân cư nằm dọc bờ biển đang bị xói lở. Hàng năm, người dân sinh sống ở khu vực ven biển chịu ảnh hưởng nặng nề do thiên tai như: Bão, nước dâng, sóng lớn, triều cường, xói lở bờ biển, hạn hán hoặc xâm nhập mặn. Trong đó, bão và nước dâng bão được coi là một trong các loại hình thiên tai có nguy cơ gây rủi ro cho tất cả các vùng ven biển Việt Nam. PGS.TS. Mai Văn Khiêm, Giám đốc Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia cho biết, trong tương lai gần, những rủi ro thiên tai do bão, nước dâng, sóng lớn, triều cường và xâm nhập mặn cho khu vực ven biển được dự báo có nguy cơ sẽ gia tăng cùng với tốc độ đô thị hóa, yêu cầu về phát triển kinh tế và do ảnh hưởng của BĐKH. Nhằm tăng cường khả năng chống chịu cho khu vực ven biển Việt Nam, Ngân hàng thế giới đề xuất một số hành động, trong đó có nhiệm vụ “Nâng cấp hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm”. Để giảm thiểu rủi ro thiên tai trên biển, rủi ro thiên tai cho vùng ven biển và đảm bảo sinh kế của người dân vùng ven biển một cách bền vững thì tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả công tác dự báo, cảnh báo KTTV biển là thực sự cần thiết và cấp bách.

Xác định công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2020 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt sâu sắc quan điểm chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp với các biện pháp thích ứng phù hợp, tôn trọng quy luật tự nhiên, thay đổi tư duy phát triển, bảo đảm phát triển bền vững. Song hành với những nhiệm vụ trên, các địa phương cần đẩy nhanh tiến độ sửa chữa hư hỏng, sự cố công trình phòng, chống thiên tai, nhất là các trọng điểm đê điều, hồ đập xung yếu có nguy cơ xảy ra sự cố trong mùa mưa lũ; di dời dân cư khẩn cấp khỏi vùng thiên tai,... Đặc biệt, chú trọng xây dựng, nâng cao hiệu quả của lực lượng xung kích phòng, chống thiên tai ở cấp xã; tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hướng dẫn kỹ năng ứng phó với các loại hình thiên tai cho người dân.

Phòng ngừa, khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó hiệu quả tác động của biến đổi khí hậu

Nhận thức được những tác động nghiêm trọng của BĐKH đến sự phát triển bền vững ở Việt Nam cũng như trên thế giới, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm xây dựng và thực hiện các chương trình, chính sách quốc gia về ứng phó với BĐKH. Ngày 20/7/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với BĐKH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định số 1055/QĐ-TTg. Kế hoạch đặt ra mục tiêu nhằm giảm thiểu tính dễ bị tổn thương và rủi ro trước những tác động của BĐKH thông qua việc tăng cường khả năng chống chịu, năng lực thích ứng của cộng đồng, các thành phần kinh tế và hệ sinh thái; thúc đẩy việc lồng ghép thích ứng với BĐKH vào hệ thống chiến lược, quy hoạch.

Thực hiện Chương trình nghị sự 30, theo Báo cáo tiến độ 5 năm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, dự kiến đến năm 2030, Việt Nam có khả năng sẽ đạt được cả 3 mục tiêu cụ thể thuộc mục tiêu phát triển bền vững số 13 về các hành động bảo vệ khí hậu. Thực tế, 5 năm qua, Việt Nam đã nỗ lực triển khai các hoạt động từ hoàn thiện thể chế chính sách đến tăng cường năng dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát khí hậu và các hoạt động cụ thể để thích ứng và giảm nhẹ phát thải KNK.

Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về BĐKH, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH. Việt Nam cập nhật Kịch bản BĐKH và nước biển dâng vào năm 2016 và năm 2020, cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2020. Đến nay, có 52/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH; 7/18 bộ và 37/63 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương ban hành Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. Bên cạnh nguồn lực trong nước, Việt Nam đã huy động được nhiều nguồn lực quốc tế cho các dự án, chương trình liên quan đến BĐKH. Trong đó giai đoạn 2017-2019, đã huy động được 146,5 triệu đô la Mỹ từ Quỹ Khí hậu xanh. Tuy nhiên, trước diễn biến và tác động của BĐKH ngày càng phức tạp, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục tập trung rà soát, hoàn thiện các văn bản chính sách pháp luật liên quan đến BĐKH đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tiễn về công tác ứng phó với BĐKH. Bên cạnh đó, để giám sát khí hậu, cần đầu tư hệ thống quan trắc, hệ thống dự báo KTTV đáp ứng được nhu cầu dự báo, đặc biệt là công nghệ dự báo cực ngắn và dự báo biển.

Là một nước đang phát triển chỉ mới bắt đầu công nghiệp hóa trong ba thập kỷ qua, nhưng Việt Nam luôn nỗ lực đóng góp vào hành động chung toàn cầu. Việt Nam đã sớm gửi Liên hợp quốc về NDC và đưa vào luật để tổ chức thực hiện nghiêm túc. Cho đến nay, Việt Nam là một trong số ít các nước tăng mức đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong đóng góp do quốc gia tự quyết định cập nhật. Việt Nam sẽ tiếp tục giảm rất mạnh điện than; tăng nhanh tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 20% tổng nguồn cung sơ cấp vào 2030 và đạt 30% đến 2045; mức độ phát thải trên tổng GDP đến 2030 giảm gần 15% và phát thải khí mêtan trong sản xuất nông nghiệp giảm đến 10%. Tháng 10/2021, Bộ TN&MT đã trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định giảm nhẹ phát thải KNK và bảo vệ tầng ozone, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về BĐKH. Đó là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện các biện pháp nhằm thực hiện đóng góp về giảm phát thải KNK do Việt Nam cam kết trong NDC.

Nghị định cũng là cơ sở quan trọng để quản lý các hoạt động phát thải KNK, tiền đề phát triển thị trường carbon; thực hiện các biện pháp quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát theo điều ước quốc tế về bảo vệ tầng ô-dôn mà Việt Nam tham gia là thành viên, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững đất nước.

NGUYỄN HOÀNG

Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng, chống thiên tai