Thấy gì từ luật tục của một số tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường

Thứ ba, 4/2/2025, 04:31 (GMT+7)
logo Ứng xử hài hoà giữa con người và thế giới tự nhiên là một nét đẹp văn hóa của các dân tộc thiểu số nhằm bảo vệ môi trường thiên nhiên và sinh kế bền vững. Các tộc người đều có những biện pháp bảo vệ môi trường riêng của mình, mà chúng ta vẫn gọi là các luật tục dân gian đã tồn tại qua nhiều thế hệ.

Thấy gì từ luật tục của một số tộc thiểu số ở Tây Bắc và Tây Nguyên trong bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường

Việt Nam có 54 dân tộc, thì 53 dân tộc là các dân tộc thiểu số. Các dân tộc này chủ yếu phân bố ở miền núi Tây Bắc, Đông Bắc, dãy Trường Sơn và Tây Nguyên. Ở đây, có nhiều triệu ha rừng và đất rừng với nhiều loại gỗ quý, trữ lượng cao và nhiều loại động thực vật có giá trị kinh tế và khoa học lớn. 

Với tiềm năng tự nhiên dồi dào, phong phú như vậy, trong một thời gian dài, các dân tộc thiểu số miền núi nước ta chủ yếu dựa vào tự nhiên để sinh kế. Từ đó, việc hình thành những kinh nghiệm và cách thức bảo vệ, khai thác môi trường tài nguyên thiên nhiên từ rất lâu đời ở các dân tộc thiểu số miền núi nước ta là điều hiển nhiên. Có thể kể ra đây những kinh nghiệm quý của đồng bào dân tộc thiểu số dưới đây.

Bảo vệ tài nguyên nước

Người Thái có khẩu ngữ quen thuộc là: “Có nước mới có ruộng, có ruộng mới có lúa”, có nơi còn quy định “ăn cắp nước lã phải phạt 80 lạng bạc, kèm theo rượu, trâu, phải cúng cho chủ hồn nước 03 đồng bạc và trả lại số nước đã lấy”. Để bảo vệ tốt nguồn nước, dân tộc Thái có những quy định rất chặt chẽ về các vùng nước, các khúc sông suối, họ thường quy những vùng nước, khúc sông suối cần bảo vệ thành những vùng linh thiêng như “vũng cấm” (văng hảm) hay “vũng mường” (văng mương). Đây là những chỗ sông, suối sâu thẳm, xanh biếc và được mở rộng ra hai bên bờ nơi có khu rừng già, nước chảy lững lờ nên có cảnh quan bề ngoài như một cái ao trời phú. Theo tôn giáo tín ngưỡng Thái thì đây là những chỗ để các siêu linh dưới nước trú ngụ và là những nơi để tế chủ nước cũng như tổ chức hội đánh cá.

Luật tục Gia Lai có những quy định rất cụ thể về bảo vệ nguồn nước, nước sạch, như: Cấm làm nhà nơi nguồn nước, nơi có mạch ngầm, mạch phun; nếu có người nào làm dơ bẩn nơi mạch nước ngầm trong sạch đó thì nó sẽ khiến cho con người bị to bụng, tả lỵ.

Ngoài ra, luật tục Gia Lai còn quy định: Nước uống dùng một con sông, một dòng suối, một hồ nước sạch,… phải dùng một phía, nhà ở về một phía, đi chôn người chết không được sang sông, sang suối, vượt nhà, vượt làng, qua rẫy, qua nương. Ai phạm vào một trong các điều trên đều bị xử phạt tùy theo mức độ vi phạm mà có mức phạt nặng nhẹ khác nhau.

Bảo vệ tài nguyên đất

Các dân tộc thiểu số miền núi nước ta có rất nhiều kinh nghiệm, phong tục tập quán trong việc bảo vệ tài nguyên đất. Nhiều dân tộc đã hình thành những bộ luật tục và có những quy định về bảo vệ đất đai rất cụ thể mà chủ yếu là đất rừng.

Trong Luật tục Ê Đê đã có hẳn một chương quy định về đất đai và người chủ đất như: Chăm nom đất đai, không để mất người chủ đất; quyền hạn, quyền lợi và nhiệm vụ của người chủ đất; việc lấn chiếm đất đai, xâm phạm đất đai. Ví dụ, đất đai, sông suối, cây rừng (là) cái nong, cái nia, cái lưng của ông bà (Điều 232 Luật tục Ê Đê). Những người được gọi là chủ đất có trách nhiệm rất lớn đối với đất đai thuộc quyền quản lý của họ, họ phải có nhiệm vụ đi thăm đất (Điều 233 Luật tục Ê Đê).

Luật tục M’nông quy định về tội bán đất rừng: Bán đất bon làng khiếu nại; bán rẫy lúa mất đất làm khổ con cháu hoặc bán đất, rừng có tội với con cháu.

Luật tục Thái cũng có quy định về quản lý, sử dụng và khai thác đất đai. Ví dụ, họ có quy định rất cụ thể về việc giải quyết tranh chấp đất ruộng: “Nếu hai bên tranh chấp nhau thửa ruộng, luật sẽ giải quyết theo văn tự của thửa ruộng. Nếu không có văn tự, bên nào quen “ăn” thửa ruộng đó, đã được một đời không bỏ, thì cho bên đó được tiếp tục “ăn” thửa ruộng như cũ”.

Với những quy định truyền thống như vậy, đã có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu số miền núi nước ta rất thành công trong việc quản lý khai thác và sử dụng đất đai (chủ yếu là đất rừng). Vì vậy, chúng ta nên vận dụng những quy định do đồng bào các dân tộc thiểu số đặt ra và được thi hành bao đời nay để thực hiện những chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc quản lý, khai thác và sử dụng đất đai.

Bảo vệ tài nguyên rừng

Các dân tộc thiểu số ở nước ta sống chủ yếu ở các vùng rừng núi. Rừng rất cần thiết và quyết định cuộc sống của họ (với cuộc sống săn bắt, hái lượm trước đây). Do đó, họ đã có những quy định rất chặt chẽ, cụ thể về cách thức quản lý, khai thác và bảo vệ rừng, được thể hiện trong các bộ luật tục của từng tộc người.

Trong Luật tục Ê Đê đã có những điều luật về các vụ cháy rừng, quy định về việc không đốt lửa bừa bãi, vô ý thức khi vào rừng; khuyên răn mọi người phải hết sức chú ý khi dùng lửa, nếu ai gây cháy sẽ bị trừng phạt rất nặng. “Đàn ông thường đốt lửa bừa bãi, đàn bà thường đốt lửa bậy bạ, có những người đốt lửa mà làm như kẻ điếc, kẻ đui, có những người đốt lửa mà làm như kẻ điên, người dại”… “E rằng đi rẫy lo việc nương rẫy mà không biết đi, cầm theo những đầu dây còn cháy dở có thể hủy diệt cả rừng. Lửa sẽ bén vào rừng thiêu trụi cỏ cây, mọi vật. Còn e rằng lửa sẽ cháy lan, thiêu trụi cả xóm làng người ta, thiêu trụi cả chòi, cả kho lúa người ta đã dựng lên trong rừng, trong rẫy, mà xung quanh chưa kịp dọn quang”.

Trong Luật tục M’nông cũng vậy, vấn đề cháy rừng được cộng đồng rất quan tâm. Để bảo vệ tốt, trước hết thường có những quy định mang tính chất phòng ngừa, dạy bảo ý thức của mọi người về những tác hại của vụ việc đó gây ra cho cộng đồng, cho chính cuộc sống hàng ngày của họ. Điều 18 Luật tục M’nông quy định: “Rừng bị cháy mà không dập tắt, người đó sẽ không có rừng, người đó sẽ không có đất”.

Ngoài ra, ở một số vùng dân tộc Thái, vấn đề ngăn chặn nạn cháy rừng cũng được quy định thành lệ rất cụ thể. Trước khi đốt rẫy, bà con thường phát cây xung quanh rẫy hai, ba sải tay để có một khoảng cách an toàn nhất định tránh lửa có thể bén tới chân rừng. Hoặc đốt nương cũng phải chọn những ngày không có gió, còn những ngày có gió to, gió Lào thì tuyệt đối không ai được đốt nương.

Luật tục M’nông quy định: “Khu rừng sâu đâu phải của nai, khu rừng đó là của tổ tiên, khu rừng đó là của con cháu, khu rừng đó là của ông bà, khu rừng đó là của chúng ta”. Do đó, nếu ai phá rừng sẽ bị lên án bằng cách: “Làm nhà đừng dùng cây nữa; làm chòi đừng đừng dùng cây nữa; làm rẫy không phát rừng nữa; khi thiếu đói đừng đào củ nữa…”.

Bảo vệ động thực vật

Trong Luật tục M’nông có đến hàng trăm điều luật khác nhau, trong đó có khá nhiều điều luật liên quan đến các loại động thực vật. Loại động vật được nói đến nhiều nhất là con voi, đã có những điều luật quy định xử phạt những ai vi phạm như ăn thịt voi, coi khinh voi, chửi mắng voi, nhất là tội hành hạ voi đến mức làm cho chúng bị thương và bị chết. Người nào sử dụng voi nhưng không chăm sóc chu đáo hoặc cục cằn, đối xử tàn nhẫn với voi sẽ bị phạt rất nặng. 

Luật tục Ê Đê cũng có nhiều điều liên quan đến quản lý, bảo vệ, khai thác động thực vật. Con voi cũng được Luật tục Ê Đê đề cập tới nhiều như: “Nếu làm voi đau ở chân thì anh ta (người vi phạm) phải chăm sóc voi, băng bó cho voi, khấn lên bài khấn cầm máu cho voi, đặt cho voi các thứ thuốc để lành sẹo vết thương, nếu máu vẫn chảy, vết thương không khô, người ta không còn đóng bành trên lưng voi được nữa, nếu voi không ăn cỏ (voi chết) thì anh ta phải đền lại giá trị hoặc thay thế một con voi khác to bằng” (Điều 222 Luật tục Ê Đê).

Chỉ với những phong tục truyền thống, những quy định đơn giản như vậy, nhưng đã có một thời kỳ dài các dân tộc thiểu số ở nước ta rất thành công trong việc bảo vệ các loài động thực vật quý hiếm cũng như các loại động thực vật phục vụ đời sống hàng ngày của họ. 

Do đó, cùng với hệ thống pháp luật bảo vệ tài nguyên và môi trường của nước ta ngày một được hoàn thiện hiện nay, chúng ta có thể kế thừa những yếu tố tốt đẹp của luật tục truyền thống như là tính cộng đồng, tính nhân bản,… để xây dựng các quy ước văn hóa thôn/bản để bảo vệ, giữ gìn tài nguyên, thiên nhiên, bảo bệ môi trường bền vững, giàu chất nhân văn.

TS. TRẦN THỊ TÚ QUYÊN
Học viện Chính trị khu vực I
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 22 (Kỳ 2 tháng 11) năm 2024