Thứ trưởng Phùng Đức Tiến: Hoàn thiện khung pháp lý ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen động lực khuyến khích các nhà khoa học và phát triển nông nghiệp Việt Nam

Chủ nhật, 19/10/2025, 06:33 (GMT+7)
logo Sáng 18/10, tại Hà Nội, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Vụ Khoa học và Công nghệ, Vụ Pháp chế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức Diễn đàn “Hoàn thiện khung pháp lý và thúc đẩy hợp tác công – tư trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam”. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến dự và chỉ đạo Diễn đàn.
thu-truong-phung-duc-tien_1760773965.jpg
Theo Thứ trưởng, để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả, hoàn thiện khung pháp lý là điều kiện tiên quyết, bảo đảm các nghiên cứu được ứng dụng và thương mại hóa thuận lợi, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học và chỉnh sửa gen thúc đẩy phát triển Nông nghiệp Việt Nam

Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến khẳng định, khoa học và công nghệ đang trở thành động lực then chốt thúc đẩy nông nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Theo Thứ trưởng, tinh thần phát triển khoa học công nghệ đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết số 19 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, đặc biệt là định hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ và kinh tế tuần hoàn. Gần đây, Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị ban hành ngày 10/7/2024 tiếp tục nhấn mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực chủ yếu để hiện đại hóa lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế Việt Nam tiến tới giá trị gia tăng cao hơn.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ hiện đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần ổn định nguồn cung cho thế giới. “Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu khoảng 67-70 tỷ USD - một minh chứng cho hiệu quả của đổi mới khoa học công nghệ”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết.

Trong các lĩnh vực công nghệ, công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá. Việt Nam đang ứng dụng nhiều hướng nghiên cứu như công nghệ chuyển gen, chỉ thị phân tử (marker), nuôi cấy mô, phôi và tế bào nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.

Thứ trưởng khẳng định, để công nghệ phát huy hiệu quả, cần song hành giữa đầu tư khoa học với xây dựng thể chế. Việc sửa đổi Luật Đa dạng sinh học, làm rõ khái niệm sinh vật biến đổi gen và ban hành quy chuẩn quản lý phù hợp thông lệ quốc tế là bước đi quan trọng, bảo đảm an toàn sinh học nhưng vẫn tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo. Ông đề nghị các cơ quan, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế tăng cường hợp tác công – tư, hình thành chuỗi đổi mới sáng tạo từ nghiên cứu cơ bản đến thương mại hóa sản phẩm, qua đó đưa công nghệ chỉnh sửa gen trở thành công cụ chiến lược cho phát triển nông nghiệp xanh, bền vững và hội nhập sâu với thế giới.

Tuy nhiên, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, dù nguồn lực và chủ trương đã có, việc hoàn thiện khung pháp lý vẫn là điều kiện tiên quyết để khoa học công nghệ phát huy hiệu quả. “Chúng ta cần tạo môi trường và động lực để các nhà khoa học yên tâm cống hiến, tránh tình trạng họ trăn trở với nghiên cứu nhưng vẫn lo lắng cho cuộc sống”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chia sẻ.

Theo Thứ trưởng, sự kiện diễn ra rất đúng thời điểm, là cơ hội để tổng kết lý luận, thực tiễn, qua đó hình thành những luận cứ quan trọng cho việc xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung các quy định pháp luật, tạo nền tảng cho sự bứt phá của khoa học công nghệ trong nông nghiệp giai đoạn mới.

cac-dai-bieu-2_1760773967.jpg
Diễn đàn “Hoàn thiện khung pháp lý và thúc đẩy hợp tác công – tư trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam”, quy tụ đông đảo đại biểu đến từ cơ quan quản lý, viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế.

Diễn đàn sáng 18/10 được nghe các báo cáo tham luận của TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường); TS. Nguyễn Duy Phương, Viện Di truyền nông nghiệp; PGS.TS Nguyễn Phương Thảo, Đại học Quốc gia TP.HCM và TS. Michael Leader, CropLife Châu Á. Ngoài ra, Tọa đàm "Hoàn thiện khung pháp lý và thúc đẩy hợp tác công - tư trong nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gen tại Việt Nam" cũng được tổ chức trong khuôn khổ diễn đàn do nhà báo Trần Cao, Phó Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường, điều phối Theo ông Cao, tọa đàm vui mừng và vinh dự khi được đón những chuyên gia đầu ngành về công nghệ sinh học. Mục tiêu nhằm không đánh mất cơ hội phát triển các mũi nhọn khoa học công nghệ, đặc biệt là chỉnh sửa gen, nhưng vẫn hài hòa với định hướng bảo vệ môi trường, đảm bảo đa dạng sinh học.

cac-dai-bieu-du_1760773968.jpg
Các đại biểu dự tại diễn đàn "Chỉnh sửa gen trong Nông nghiệp công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý"

Tham dự tọa đàm có 5 diễn giả, gồm: GS.TS Lê Huy Hàm - Chủ nhiệm Chương trình KC12: Định hướng Nghiên cứu công nghệ sinh học, chỉnh sửa gen cấp quốc gia; TS. Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ: Định hướng nghiên cứu công nghệ sinh học, chỉnh sửa gen ngành nông nghiệp; PGS.TS Phạm Doãn Lân - Phó Viện trưởng Viện Chăn nuôi: Chỉnh sửa gen trên động vật; PGS.TS Nguyễn Thị Phương Thảo - Khoa Công nghệ sinh học - Đại học Quốc tế, Đại học Quốc gia TP.HCM; TS Trần Minh Thu - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Vinaseed.

anh-toa-dam_1760777137.jpg

Không khí tọa đàm mở trở nên sôi nổi với sự điều phối của nhà báo Trần Cao, khi các chuyên gia như GS.TS Lê Huy Hàm; TS Nguyễn Văn Long; PGS.TS Phạm Doãn Lân; PGS.TS Nguyễn Thị Phương Thảo; TS Trần Minh Thu cùng thảo luận về việc xây dựng khung pháp lý minh bạch, cơ chế khuyến khích đầu tư tư nhân, cũng như các tiêu chuẩn đạo đức trong nghiên cứu gen. Các ý kiến đều thống nhất rằng Việt Nam cần một môi trường pháp lý linh hoạt, phù hợp thông lệ quốc tế nhưng vẫn đảm bảo an toàn sinh học, tạo nền tảng vững chắc cho công nghệ chỉnh sửa gen phát triển.
 

Hoàn thiện khung pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen, bước đi chiến lược của nông nghiệp Việt Nam

so-1_1760773966.jpg
TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết: “Công nghệ chỉnh sửa gen đang mở ra cơ hội lớn cho nông nghiệp Việt Nam, nhưng để tận dụng được, cần một khung pháp lý vừa bảo đảm an toàn, vừa khuyến khích đổi mới"

Tại Diễn đàn TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), cho biết: “Công nghệ chỉnh sửa gen đang mở ra cơ hội lớn cho nông nghiệp Việt Nam, nhưng để tận dụng được, cần một khung pháp lý vừa bảo đảm an toàn, vừa khuyến khích đổi mới.”

Trên thế giới, cách tiếp cận trong quản lý sinh vật biến đổi gen (GMO) đang có sự chuyển dịch rõ rệt. Mỹ, Canada, Argentina, Brazil và nhiều quốc gia châu Á đã chọn hướng quản lý theo sản phẩm cuối cùng (product-based approach), tức là chỉ đánh giá độ an toàn của sản phẩm đã hoàn thiện. Ngược lại, Liên minh châu Âu (EU) vẫn giữ mô hình quản lý theo quy trình (process-based approach), yêu cầu kiểm soát chặt từ giai đoạn nghiên cứu đến thương mại hóa.

Theo TS. Long, xu hướng toàn cầu hiện nay là đơn giản hóa quản lý đối với sản phẩm không chứa DNA ngoại lai, giúp thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp mà vẫn duy trì tiêu chuẩn an toàn sinh học.

Tại Việt Nam, nhiều văn bản định hướng lớn của Đảng và Chính phủ đã nhấn mạnh vai trò của công nghệ sinh học, trong đó có chỉnh sửa gen, như Nghị quyết số 36-NQ/TW (2023), Nghị quyết số 57-NQ/TW (2024), và đặc biệt là Quyết định 1131/QĐ-TTg (2025) – lần đầu tiên xác định chỉnh sửa gen là công nghệ chiến lược quốc gia, cùng nhóm với trí tuệ nhân tạo (AI) và vật liệu mới.

Chia sẻ về kinh nghiệm quản lý sản phẩm Biến đổi Gen (GMO), TS. Nguyễn Văn Long, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, cho biết thế giới hiện áp dụng hai hướng tiếp cận chính trong quản lý sản phẩm chỉnh sửa gen: thứ nhất là đánh giá rủi ro dựa vào đặc tính sinh học của sản phẩm cuối cùng, không phụ thuộc vào công nghệ tạo ra nó; thứ hai là dựa trên công nghệ tạo ra sản phẩm.

Tuy nhiên, Luật Đa dạng sinh học 2008 vẫn chỉ định nghĩa sinh vật biến đổi gen theo công nghệ chuyển gen, chưa cập nhật khái niệm “chỉnh sửa gen” (gene editing). Vì vậy, theo TS. Long, “Việc sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học là cần thiết để phản ánh đúng thực tế công nghệ hiện nay và tạo cơ sở pháp lý cho quản lý, thương mại sản phẩm.”

Để tháo gỡ, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học 2008 để cập nhật khái niệm và quy định về chỉnh sửa gen, đồng thời xây dựng cơ chế quản lý và thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu. Việc hoàn thiện khung pháp lý này đòi hỏi thời gian, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, nhà khoa học và doanh nghiệp, cùng cam kết mạnh mẽ từ các nhà hoạch định chính sách.

Để thúc đẩy ứng dụng bền vững, ông đề xuất một số giải pháp định hướng: hoàn thiện chính sách và tiêu chuẩn kỹ thuật; phát triển cơ sở dữ liệu gen quốc gia; đầu tư phòng thí nghiệm hiện đại; nâng cao năng lực truyền thông khoa học để giảm e ngại xã hội; và đặc biệt, tăng cường hợp tác quốc tế, bảo hộ sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm nghiên cứu trong nước.

Công nghệ chỉnh sửa gen, nếu được định vị đúng trong chiến lược phát triển nông nghiệp, sẽ không chỉ giúp Việt Nam chủ động trước biến đổi khí hậu, mà còn tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt trên thị trường quốc tế.

Từ phòng thí nghiệm đến cánh đồng công nghệ, chỉnh sửa gen mở đường cho giống cây trồng Việt Nam thế hệ mới

so-2_1760773966.jpg
TS. Nguyễn Duy Phương, Viện Di truyền Nông nghiệp, khẳng định: “Chỉnh sửa gen không chỉ là một kỹ thuật chọn giống mới, mà là công nghệ của thời đại, có thể rút ngắn hành trình từ phòng thí nghiệm đến cánh đồng chỉ còn vài năm"

Trong báo cáo “Một số kết quả nghiên cứu và đề xuất cho phát triển công nghệ chỉnh sửa gen ở Việt Nam”, TS. Nguyễn Duy Phương, Viện Di truyền Nông nghiệp, khẳng định: “Chỉnh sửa gen không chỉ là một kỹ thuật chọn giống mới, mà là công nghệ của thời đại, có thể rút ngắn hành trình từ phòng thí nghiệm đến cánh đồng chỉ còn vài năm”.

Chia sẻ tại Diễn đàn, TS. Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp), cho biết công nghệ chỉnh sửa gen đã và đang mở ra hướng đi mới cho chọn giống cây trồng hiện đại, với tiềm năng rút ngắn thời gian và chi phí nghiên cứu so với công nghệ chuyển gen truyền thống.

Theo TS. Phương, so với các phương pháp chọn giống truyền thống mất từ 8–14 năm, chỉnh sửa gen (CRISPR/Cas, SDN-1, SDN-2) giúp rút ngắn thời gian còn 2–5 năm, tạo ra các đột biến chính xác mà không cần đưa DNA ngoại lai vào. Điều này cho phép duy trì đặc tính gốc của giống cây, đồng thời cải thiện năng suất, khả năng kháng bệnh, chống chịu stress và thích nghi môi trường.

Hiện nay, các viện nghiên cứu trong nước đã ứng dụng thành công công nghệ này trên nhiều cây trồng quan trọng: Lúa Bắc thơm 7 chịu nóng, lúa KD18 chịu mặn, TBR225 giảm tích lũy Cadmium; Đậu tương kháng bệnh phấn trắng, chịu hạn; Đu đủ kháng virus đốm vòng; Cà chua tăng hàm lượng đường và carotenoid; Ngô tăng số hàng hạt.

Nhiều sản phẩm trong số này đã sẵn sàng đưa ra khảo nghiệm sản xuất, minh chứng cho năng lực nghiên cứu trong nước đã tiến gần chuẩn quốc tế.

Tuy vậy, TS. Phương cho rằng, rào cản lớn nhất hiện nay không nằm ở kỹ thuật mà ở thể chế quản lý. Việt Nam vẫn đang áp dụng quy định cho GMO đối với cả sản phẩm chỉnh sửa gen, trong khi hai nhóm này có bản chất khác nhau. Ông kiến nghị: “Cần phân loại rõ giữa SDN-1, SDN-2 và SDN-3. Những sản phẩm không chứa DNA ngoại lai nên được coi như cây trồng thông thường, còn sản phẩm mang DNA ngoại lai thì áp dụng quy chế quản lý GMO”.

TS. Phương nhấn mạnh thêm, Việt Nam có đủ nền tảng nhân lực, cơ sở vật chất và quyết tâm chính trị để trở thành quốc gia tiên phong trong khu vực về chỉnh sửa gen nông nghiệp. Điều quan trọng là khung pháp lý và nhận thức xã hội phải đi kịp với tốc độ phát triển công nghệ.

Khi công nghệ chỉnh sửa gen được đưa vào thực tiễn sản xuất, nông nghiệp Việt Nam có thể mở ra một kỷ nguyên mới: năng suất cao hơn, sản phẩm an toàn hơn và thích ứng tốt hơn với khí hậu toàn cầu đang biến đổi nhanh chóng.

Tại Việt Nam, nền tảng khoa học và nhân lực cho lĩnh vực này đã hình thành rõ nét. Nhiều đơn vị nghiên cứu như Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Sinh học Việt Nam và một số trường đại học đã tiếp cận, triển khai và bước đầu làm chủ công nghệ chỉnh sửa gen, đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thử nghiệm, tạo ra nhiều sản phẩm cây trồng mới sẵn sàng đưa vào khảo nghiệm phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, ông Phương cho rằng công nghệ này hiện đang bị “trói buộc” bởi việc thiếu quy chế quản lý riêng, khiến nhiều kết quả nghiên cứu chưa thể thương mại hóa.

“Đảng và Chính phủ đã xác định chỉnh sửa gen là công nghệ chiến lược. Vấn đề bây giờ là chúng ta cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các nhà khoa học, doanh nghiệp ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu”, ông nhấn mạnh.

Một số hình ảnh diễn ra tại Diễn đàn:

ong-thach-tong-bien-tap-bao-nn_1760773968.jpg
Ông Nguyễn Ngọc Thạch, Tổng Biên tập Báo Nông nghiệp và Môi trường phát biểu tại diễn đàn
pgs.ts-nguyen-phuong-thao-dai-hoc-quoc-te-dai-hoc-quoc-gia-tp.hcm_1760773969.jpg
PGS.TS Nguyễn Phương Thảo, Trường Đại học Quốc tế – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, giới thiệu các ứng dụng cụ thể trong chọn tạo giống cây trồng lâu năm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển bền vững.
ts.-michael-leader-croplife-chau-a-t_1760777830.jpg
Đại diện CropLife Châu Á, TS. Michael Leader, chia sẻ kinh nghiệm quốc tế về xu hướng chính sách và mô hình hợp tác công – tư trong lĩnh vực chỉnh sửa gen, đặc biệt là cách thức huy động doanh nghiệp cùng tham gia đầu tư nghiên cứu.
Liên Huyền