
Thảm thực vật ven bờ sông, kênh, rạch đã được thừa nhận là có vai trò quan trọng trong việc giảm nguy cơ sạt lở và ổn định bờ sông [6]. Việc phục hồi và phát triển thảm thực vật sau khi bờ bị sạt lở có tác dụng bẫy phù sa, hạn chế xói mòn. Các bãi ngập không có thảm thực vật bị xói mòn nhiều hơn tới 80% so với các bãi có thảm thực vật [6]. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả điều tra, khảo sát hiện trạng sạt lở bờ sông, kênh rạch, đồng thời đánh giá vai trò của thực vật trong việc chống, hạn chế sạt lở, làm cơ sở đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát triển thảm thực vật ven sông kênh rạch cho không chỉ tỉnh Kiên Giang mà cả những khu vực khác thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Địa điểm và phương pháp nghiên cứu
Tổng hợp thông tin, số liệu thứ cấp, kết hợp với điều tra, khảo sát thực địa được thực hiện tháng 4/2024 trên dọc các tuyến sông, kênh, rạch để đánh giá tổng quan về sạt lở cũng như phân bố thảm thực vật ven bờ sông, kênh, rạch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Sau đó, các điểm sạt lở được điều tra chi tiết nhằm thu thập dữ liệu về tọa độ địa lý, mức độ sạt lở, đặc điểm thảm thực vật tại khu vực sạt lở cũng được ghi nhận. Điều tra xã hội học thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn sâu cũng được thực hiện đối với cán bộ quản lý và người dân ở khu vực sạt lở nhằm thu thập thông tin đánh giá mức độ, tần suất sạt lở và vai trò của thảm thực vật ven bờ sông, kênh, rạch trong phòng chống sạt lở.
Kết quả nghiên cứu
Thực trạng và nguyên nhân sạt lở bờ sông, kênh, rạch
Hình 1. Sạt lở bờ sông, kênh rạch trên địa bàn huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang
Hình 2. Sạt lở bờ sông, kênh, rạch ở những khu vực có và không có thảm thực vật phát triển
Hiện trạng sạt lở bờ sông, kênh, rạch ở Kiên Giang đang diễn biến rất phức tạp, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Theo Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang năm 2020, tỉnh Kiên Giang có 25 khu vực sạt lở nghiêm trọng, với tổng chiều dài lên tới 195 km [2]. Kết quả điều tra, khảo sát chi tiết tại huyện U Minh Thượng cho thấy, từ đầu năm 2024, tình trạng sạt lở, sụt lún đã xảy ra nghiêm trọng hơn, gây thiệt hại lớn về cơ sở hạ tầng cầu cống (Hình 1a), đường giao thông (Hình 1b) và tài sản của người dân (Hình 1c). Theo thống kê của UBND huyện U Minh Thượng, trên toàn huyện có tới 450 điểm sạt lở, sụt lún với tổng chiều dài hơn 11 km, dẫn tới nhiều đoạn tuyến đường tỉnh và đường giao thông nông thôn bị chia cắt, thậm chí nhiều nhà dân bị đổ sập ảnh hưởng đến đời sống, gây thiệt hại về tài sản và đe dọa tính mạng của người dân địa phương.
Cũng như các khu vực khác tại ĐBSCL,... sạt lở bờ sông, kênh, rạch tại Kiên Giang đã diễn ra từ nhiều năm trước nhưng ít và mang tính quy luật đó là mùa lũ dòng chảy lớn, sạt lở diễn ra nhiều hơn; mùa khô dòng chảy nhỏ, bồi lắng lòng dẫn nhiều hơn. Tuy nhiên, những năm gần đây, tình hình sạt lở xảy ra nhiều hơn, phức tạp hơn, do tác động tổng hợp từ nhiều nguyên nhân khác nhau như chặt phá rừng, hoạt động khai thác cát, gia tăng giao thông thủy, các hoạt động đánh bắt thủy sản,… đặc biệt, biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng phức tạp, khiến chế độ thủy động lực dòng sông, bùn cát trên hệ thống sông thay đổi [3].
Đặc điểm phân bố thành phần thảm thực vật tại khu vực sạt lở
Kết quả điều tra, khảo sát dọc các tuyến sông, kênh, rạch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang cho thấy, thực vật vùng nghiên cứu có đầy đủ 6 nhóm dạng sống theo phân chia của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997), gồm: Cây thân thảo, cây bụi, cây gỗ nhỏ, cây gỗ lớn, dây leo và bán kí sinh. Nhóm cây thân thảo có các loài đại diện như: Cỏ Vetiver (Vetiveria zizanioides L.), thài lài (Tradescantia pallida), cỏ rết (Eremochloa ophiuroides Hack), cỏ Muzi (Urochloa eminii), thủy trúc (Cyperus alternifolius); nhóm cây bụi có các loài: Chuối tây (Musa sapientum), sả (Cymbopogon), Sậy (Phragmites vallatoria (L) Veldk.), ngâu (Aglaia duperreana), điên điển (Sesbania sesban (L.) Merr.); nhóm cây gỗ lớn có các loài: Mắm trắng (Avicennia alba L.), tràm (Melaleuca cajuputi Powel), bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis), đước đôi (Rhizophora apiculata Blume); nhóm cây gỗ nhỏ có các loài: Bình bát (Annona glabra L), gáo vàng (Nauclea orientalis (L.) L), keo lá tràm (Acacia auriculiformis), bần chua (Sonneratia caseolaris (L) Engl.), Bần ổi (Sonneratia ovata), Dừa nước (Nypa fruticans Wurmb); nhóm cây dây leo có các loài: Dây vác (Cayratia trifolia), dây choại (Stenochlaena palustris); và nhóm cây bán kí sinh có các loài: Mộc kí (Dendrophtoe pentandra (L.) Miq.), tơ xanh (Cassytha filiformis L). Trong đó, có những loài điển hình cho vùng đất phù sa như: Tràm (Melaleuca cajuputi Powel), tre (Bambusa blumeana), Dừa nước (Nypa fruticans), Thuỷ trúc (Cyperus alternifolius), Ráng đại (Acrostichum aureum); đất phèn và đất mặn như tre (Bambusa blumeana), tràm (Melaleuca cajuputi Powell), bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis), đước đôi (Rhizophora apiculata Blume), mắm trắng (Avicennia alba Blume); bần chua (Sonneratia caseolaris (L) Engl.).
Thảm thực vật như một lớp phủ đồng nhất trên mặt đất, có vai trò ổn định bờ sông, kênh, rạch do sự gắn kết của hệ thống rễ dưới mặt đất. Không chỉ vậy, việc bẫy trầm tích, phù sa, làm giảm tốc độ xói mòn bờ sông, kênh, rạch bằng cách thay đổi đáng kể vận tốc và hướng dòng chảy tác dụng trực tiếp vào bờ cũng là một trong những lợi ích của thảm thực vật ven bờ. Mỗi loài thực vật khác nhau có cơ chế tác động đến hình thái bờ sông, kênh, rạch khác nhau thông qua tuổi cây, mật độ cây, cấu trúc tán, bộ rễ và tính linh hoạt cấu hình bản lá. Kết quả điều tra chi tiết cho thấy ở hầu hết các điểm sạt lở nghiêm trọng, đều không có thảm thực vật phát triển, đặc biệt thiếu vắng hoàn toàn nhóm cây gỗ lớn, gỗ nhỏ và cây bụi, trong khi các cây thân thảo cây dây leo và bán ký sinh chiếm ưu thế (Hình 2a). Ngược lại ở những điểm không sạt lở, hoặc sạt lở ít nghiêm trọng, thảm thực vật phát triển hơn với nhóm cây gỗ lớn, gỗ nhỏ và cây bụi chiếm ưu thế (Hình 2b). Những điểm có thảm thực vật mới hình thành với mật độ thưa hay những loài có bộ rễ kém phát triển vẫn bị sạt lở (Hình 2c).
Một số nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, những thay đổi theo không gian và thời gian về độ sâu và cấu trúc rễ cây ven sông có vai trò quan trọng đối với sự ổn định của bờ sông, kênh rạch. Micheli và cộng sự [4] ước tính rằng các bãi ngập không có thảm thực vật bị xói mòn nhiều hơn 80 -150% so với các bãi có thảm thực vật. Trong nghiên cứu về thực vật ven sông ở Úc, Abernethy và Rutherfurd [1] nhận thấy, các loài cây khác nhau có hiệu quả bảo vệ bờ sông khác nhau. Các nghiên cứu đã cho thấy thảm thực vật có vai trò quan trọng và phức tạp hơn nhiều so với nhận thức trước đây trong việc bảo vệ, ổn định bờ sông, kênh rạch. Vai trò này thay đổi liên tục theo thời gian và không gian vì sự thay đổi sinh khối trên và dưới mặt đất trong chu kỳ tăng trưởng của cây và để phản ứng với các động lực bên ngoài. Khả năng ổn định, chống sạt lở bờ sông, kênh rạch của thảm thực vật còn dựa vào kích thước, cấu trúc, mật độ và các đặc tính vật lý của sinh khối trên và dưới mặt đất của nó. Các loài cây khác nhau cũng như các cấu trúc của thảm thực vật khác nhau sẽ có khả năng chống sạt lở khác nhau, sự thay đổi của loài và cấu trúc thảm thực vật theo không gian và thời gian trên hệ thống sông và các sông khác nhau dẫn đến khả năng phòng, chống sạt lở khác nhau.
Một số giải pháp bảo tồn và phát triển thảm thực vật ven sông, kênh rạch
Kết quả nghiên cứu thực trạng sạt lở và vai trò chống sạt lở của thực vật ven sông, kênh rạch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang cho thấy, cần có những nghiên cứu chuyên sâu, đánh giá tổng hợp vai trò của thảm thực vật chống sạt lở bờ sông, kênh, rạch, từ đó có giải pháp bảo tồn và phát triển thực vật ven sông cho không chỉ Kiên Giang, mà còn cho các tỉnh ĐBSCL khác. Địa phương cũng cần có kế hoạch bảo vệ và phát triển thảm thực vật ven sông với mục tiêu cụ thể; lồng ghép các kế hoạch, nhiệm vụ đó vào các mục tiêu, quy hoạch sử dụng đất; quản lý không gian dọc bờ sông; thực hiện việc giám sát và đánh giá định kỳ về tình trạng của thảm thực vật ven sông và mức độ sạt lở bờ sông, kênh rạch để điều chỉnh các biện pháp quản lý và can thiệp kịp thời. Bên cạnh đó, cần tiếp tục tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị và bảo tồn, phát triển thảm thực vật cho các nhà quản lý và các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cư; khuyến khích sự tham gia của cộng đồng, người dân cùng với các bên liên quan khác cùng tham gia các hoạt động bảo vệ, phục hồi thảm thực vật, giám sát và kịp thời phát hiện để ngăn chặn những hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp xâm phạm, đe dọa tới sự tồn tại và phát triển của thảm thực vật ven sông. Ngoài ra, việc nghiên cứu các giải pháp thủy lợi hỗ trợ cho thảm thực vật phát triển như tạo kè sinh thái, lựa chọn loài thực vật phù hợp, kỹ thuật trồng phục hồi thảm thực vật chống sạt lở bờ sông cũng rất cần thiết.
Kết luận
Hiện trạng sạt lở bờ sông, kênh, rạch tỉnh Kiên Giang đang diễn biến hết sức phức tạp, gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng ảnh hưởng tới đời sống của người dân địa phương. Nhiều nỗ lực của chính quyền và người dân đã và đang được triển khai khẩn cấp để hạn chế, ứng phó và khắc phục hậu quả tình trạng sạt lở nghiêm trọng này. Trong đó, giải pháp nghiên cứu bảo vệ và phát triển thảm thực vật ven bờ sông, kênh, rạch cần được được coi là giải pháp căn cơ, đáng được ưu tiên do hiệu quả rõ rệt của nó trong việc phòng chống sạt lở bờ sông, kênh, rạch. Bên cạnh đó, việc lồng ghép mục tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển thảm thực vật vào mục tiêu, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội của địa phương là cần thiết.
Lời cảm ơn: Các tác giả cảm ơn đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và ứng dụng giải pháp sinh thái - thủy lợi nhằm phòng, chống sạt lở bờ sông, kênh, rạch khu vực Tây Nam sông Hậu”, mã số ĐTĐL.CN-97/21 và Quỹ Nagao đã hỗ trợ thực hiện nghiên cứu.
Tài liệu tham khảo
1. Abernethy, B., Rutherfurd ID. (1998). Where along a river’s length will vegetation most effectively stabilise stream banks? Geomorphology 23: 55–75;
2. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2020). Niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang. Nhà xuất bản Thống kê;
3. Lê Mạnh Hùng và Trần Bá Hoằng (2017). Sạt lở bờ hệ thống sông vùng ĐBSCL và những đóng góp của KH&CN vào việc phòng chống giảm nhẹ thiệt hại. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam số 9 năm 2017: 24-26;
4. Micheli, ER, Kirchner JW, Larsen EW. (2004). Quantifying the effect of riparian forest versus agricultural vegetation on river meander migration rates, central Sacramento River, California, USA. River Research and Applications 20: 537–548;
5. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2022). Báo cáo thuyết minh tổng hợp kê hoạch sử dụng đất (2021-2025) của tỉnh Kiên Giang;
6. Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình (2020). Báo cáo khoa học tổng kết đề tài Nghiên cứu xây dựng mô hình sinh thái bền vững trên vùng triều ven biển đồng bằng sông Cửu Long.
NGUYỄN THỊ LY, PHẠM HỒNG TÍNH, MAI HƯƠNG LAM
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
NGUYỄN HOÀNG HANH
Viện Sinh thái và Bảo vệ công trình
BÙI THANH HUYỀN
Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2024