Tiếp tục hiện đại hóa mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn

Thứ ba, 19/4/2022, 15:55 (GMT+7)
logo Những năm qua, mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia không ngừng được bổ sung, củng cố và phát triển theo hướng hiện đại; cung cấp thông tin, dữ liệu kịp thời, đáp ứng yêu cầu của công tác cảnh báo, dự báo, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc gia nhìn chung còn thưa, tỷ lệ trạm tự động còn thấp.

Tiếp tục hiện đại hóa mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn

Đầu tư, hiện đại hóa công nghệ dự báo, thiết bị đo đạc

Ngành KTTV đã được Nhà nước quan tâm, từng bước đầu tư đổi mới và hiện đại hóa thiết bị đo đạc KTTV, tăng cường khả năng quan trắc thu thập số liệu nhằm đáp ứng yêu cầu dự báo bão, lũ nhanh chóng, kịp thời. Mạng lưới quan trắc KTTV từng bước được hiện đại hóa, chuyển từ công nghệ thủ công lạc hậu cũ sang công nghệ mới theo phương thức hiện đại tự động, nhiều thiết bị có độ bền và chính xác cao, công nghệ đo theo hướng tự động hóa đã đóng góp hết sức quan trọng, tăng cường năng lực lưới trạm đo, đan dày số lượng trạm, tăng số liệu đầu vào cho các mô hình dự báo số trị tăng cường các hệ thống đo đạc từ xa, bảo đảm theo dõi liên tục các biến động về thời tiết, khí hậu, tài nguyên nước. Hiện nay, mạng lưới trạm KTTV quốc gia có 1.804 trạm/điểm quan trắc KTTV, đạt 30% so với Quy hoạch mạng lưới quan trắc TN&MT quốc gia giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Số lượng trạm KTTV được tự động các yếu tố cơ bản là 1.395 trạm/điểm (đạt khoảng 77,3%), còn lại là quan trắc thủ công và bán tự động.

Do tác động BĐKH, thiên tai có nguồn gốc KTTV ngày càng khắc nghiệt và gia tăng, bão, lũ, ngập lụt, hạn hán tần suất xảy ra thường xuyên hơn, quy mô lớn hơn và mức độ tàn phá nặng nề hơn, dự báo định lượng mưa lớn trong trường hợp cực đoan phạm vi hẹp. Cảnh báo lũ quét, sạt lở đất ở nhiều sông suối, đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ đạt được ở mức cảnh báo có nguy cơ trên một khu vực rộng, chưa cảnh báo được ở một vị trí cụ thể; việc thu nhận số liệu hồ chứa từ các chủ hồ phục vụ công tác dự báo, cảnh báo thủy văn vùng hạ du hồ còn nhiều bất cập đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dự báo, cảnh báo KTTV, trong khi đó, nhu cầu của công tác dự báo, cảnh báo phòng tránh thiên tai đòi hỏi ngày càng cao, hiện đại hóa và tự động hóa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành KTTV trong giai đoạn từ 2020 - 2030.

Công nghệ dự báo mô hình số trị phát triển, đòi hỏi mạng lưới trạm quan trắc khí tượng tự động phải tăng nhiều, đan dày phủ kín lãnh thổ để cung cấp số liệu quan trắc theo thời gian thực phục vụ chạy các mô hình dự báo số trị. Trong khi hệ thống mạng lưới trạm quan trắc còn thưa, việc theo dõi sự BĐKH của mạng lưới trạm, nhất là những biến đổi dị thường của tự nhiên còn nhiều hạn chế do nguồn số liệu đầu vào mô hình phục vụ công tác dự báo vẫn còn hạn chế. So với nhu cầu dự báo phục vụ phát triển KT-XH của nước ta hiện nay và đến năm 2030, mạng lưới quan trắc KTTV nhìn chung còn thưa, thiếu về số lượng và phân bố chưa đều theo lãnh thổ, đặc biệt là ở những vùng thường xuyên xảy ra thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới, lũ, lũ quét, ngập lụt, xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông và ONMT không khí và nước ở các vùng kinh tế trọng điểm, vùng có nguy cơ ONMT cao như khu đô thị, làng nghề.

Việc phục vụ của mạng lưới trạm KTTV cho các yêu cầu phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN cơ bản đáp ứng được ở tầm vĩ mô, ở mức độ thấp hơn như phát triển KT-XH ở từng địa phương, từng khu vực nhỏ còn có hạn chế.

Phát triển hiện đại hóa mạng lưới quan trắc trong thời gian tới

Quan điểm phát triển mạng lưới quan trắc là Quy hoạch mạng lưới quan trắc KTTV hợp lý, thống nhất, đồng bộ, hiện đại, đạt trình độ hàng đầu khu vực Đông Nam Á và trình độ tiên tiến của khu vực châu Á; đáp ứng nhu cầu thông tin, dự báo, cảnh báo, giảm nhẹ thiên tai, điều tra cơ bản phục vụ QLNN về KTTV, tài nguyên nước, môi trường, biển và hải đảo; BVMT và các ngành kinh tế kỹ thuật khác; phục vụ dự báo, cảnh báo, phòng tránh, giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai và ONMT, ứng phó với BĐKH trong giai đoạn 2020-2030. Mạng lưới quan trắc KTTV làm nòng cốt, được lồng ghép tối đa giữa các lĩnh vực của mạng lưới TN&MT, kế thừa, tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ quan trắc viên hiện có. Đầu tư, vận hành đảm bảo đồng bộ, tiên tiến, hiện đại và toàn diện (hiện đại hóa công nghệ và thiết bị quan trắc, phân tích, truyền tin và xử lý thông tin theo hướng số hóa, tự động hóa trên cơ sở phát huy công nghệ trong nước và tiếp thu công nghệ tiên tiến của nước ngoài). Bổ sung, nâng cấp và hoàn thiện mạng lưới quan trắc, kết nối và chia sẻ thông tin từ trung ương đến địa phương với sự quản lý thống nhất của Bộ TN&MT. Đầu tư cho KH-CN và đào tạo nguồn nhân lực làm giải pháp trọng tâm, chủ yếu để phát triển trên cơ sở kế thừa và phát huy tối đa nguồn lực hiện có; khai thác triệt để thành tựu KH-CN trong nước, đồng thời ứng dụng chọn lọc những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đảm bảo công tác quản lý và vận hành mạng quan trắc tiên tiến, hiện đại đáp ứng việc cung cấp số liệu, thông tin, phục vụ dự báo, cảnh báo thiên tai, điều tra cơ bản.

Thực hiện phát triển mạng lưới trạm KTTV theo Quyết định số 90/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới quan trắc TN&MT quốc gia giai đoạn 2016 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Phát triển hệ thống đo đạc KTTV nhiều thành phần: Mạng lưới KTTV quốc gia cơ bản, mạng lưới chuyên dùng (của các ngành và địa phương) và mạng lưới quan trắc tự nguyện, mạng lưới trạm từ nguồn vốn xã hội hóa; tăng cường các hệ thống đo mưa từ xa, bảo đảm theo dõi liên tục các biến động về thời tiết, khí hậu, tài nguyên nước, đáp ứng đầy đủ dữ liệu cho dự báo KTTV theo phương pháp tiên tiến và các nhu cầu khác.

Tăng cường quan trắc trên cao bằng các thiết bị hiện đại, thiết lập các hệ thống đo gió cắt lớp, định vị sét. Kiện toàn đồng bộ hệ thống ra đa thời tiết cùng với các công nghệ xử lý dữ liệu kết hợp với phát triển hệ thống đo mưa mật độ cao. Củng cố, phát triển mạng lưới giám sát khí hậu và BĐKH trên cơ sở các trạm KTTV đã có; phát triển mạng lưới trạm quan trắc bức xạ đáp ứng yêu cầu nghiên cứu về năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; phát triển mạng lưới quan trắc thủy văn phục vụ điều hành hồ chứa, quản lý cung cấp nước, phòng ngừa lũ lụt và hạn hán.

Phát triển mạng lưới đo đạc KTTV trên biển, thiết lập các trạm đo đạc trên các tàu biển và giàn khoan ngoài khơi phục vụ giao thông biển, khai thác dầu khí và nguồn lợi hải sản.Thiết lập hệ thống thanh tra, kiểm tra kỹ thuật thống nhất trên toàn bộ mạng lưới quốc gia, mạng lưới chuyên dùng và mạng lưới quan trắc tự nguyện. Duy trì và phát triển hệ thống kiểm định phương tiện đo KTTV; phát triển hệ thống cơ sở sản xuất, sửa chữa thiết bị đo KTTV.

GS.TS. Trần Hồng Thái, Tổng cục trưởng Tổng cục KTTV cho biết: Chiến lược phát triển Ngành KTTV đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu đến năm 2030, tự động hóa đạt trên 95% đối với các trạm khí tượng, trạm đo mực nước, đo mưa, đo gió trên cao, tối thiểu 40% đối với các trạm đo lưu lượng. Để đạt được mục tiêu tự động hóa như Chiến lược đề ra, ngành KTTV xác định từ nay đến năm 2030 sẽ tập trung triển khai hiệu quả các dự án liên quan đến đầu tư cho mạng lưới quan trắc KTTV trong Kế hoạch đầu tư trung hạn 2021 - 2025 của Bộ TN&MT bằng các nguồn vốn trong và ngoài nước; xây dựng các dự án trọng tâm, trọng điểm trong Đề án tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho mạng lưới quan trắc, dự báo, cảnh báo và thông tin, dữ liệu KTTV giai đoạn 2023 - 2030 theo hướng hiện đại hóa, tự động hóa hoàn toàn; đề xuất cấp có thẩm quyền ưu tiên bố trí danh mục, ngân sách cho các dự án hiện đại và phát triển mạng lưới quan trắc KTTV quốc gia trong Kế hoạch đầu tư trung hạn các giai đoạn tiếp theo. Đồng thời, hoàn thành và thực hiện hiệu quả Đề án Thuê dịch vụ đo mưa tự động phục vụ công tác dự báo KTTV, đặc biệt là mưa, lũ theo phương thức thuê bao khai thác dữ liệu (1.000 trạm) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 310/QĐ-TTg ngày 8/3/2021. Thực hiện chuyển đổi toàn diện công tác quan trắc thủ công sang phương thức mới theo xu hướng tự động; ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào Camera quan trắc mưa và mực nước; thiết bị, cảm biến hỗ trợ IoT; công nghệ truyền dẫn thế hệ mới cho mạng lưới quan trắc KTTV.

NGUYỄN LINH

Bộ Tài nguyên và Môi trường