news

Triển khai các giải pháp phòng chống lũ, lũ quét và sạt lở giảm thiểu thiệt hại thiên tai

Thứ năm, 25/4/2024, 14:48 (GMT+7)
logo Các trận lũ lớn thường do mưa cực trị với lượng mưa rất lớn gây ra cộng với nước biển dâng (triều cường) khiến cho lũ thoát ra biển chậm gây ngập lụt cho khu vực đồng bằng, ven biển. Lũ quét xảy ra là tổ hợp của các yếu tố: Mưa đặc biệt lớn (≥ 220mm), tập trung trong thời gian ngắn, độ dốc lớn (> 250), kết cấu đất yếu, địa hình lượn sóng, lớp phủ thực vật thưa thớt. Các loại hình thiên tai này nếu không có các biện pháp phòng, chống sẽ gây ra thiệt hại nặng nề,…

Triển khai các giải pháp phòng chống lũ, lũ quét và sạt lở giảm thiểu thiệt hại thiên tai

Tác động của biến đổi khí hậu đến lũ, lũ quét và sạt lở

Theo Báo cáo của Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia, năm 2023, trên các sông khu vực Bắc Bộ đã xuất hiện 08 đợt lũ, chủ yếu trên các sông suối nhỏ. Do ảnh hưởng của các đợt mưa lớn kéo dài, mưa lớn cục bộ, đã gây ra 28 đợt với hơn 100 điểm lũ quét, sạt lở đất trên phạm vi 35 tỉnh thuộc khu vực trung du và miền núi các tỉnh Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên gây thiệt hại không nhỏ về người và tài sản. Tại khu vực Bắc Bộ, Thanh Hóa, Nghệ An và Bình Thuận, lũ quét và sạt lở đất tập trung chính cuối tháng 6 đến đầu tháng 10/2023; các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Ninh Thuận tập trung chủ yếu từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 12/2023; khu vực Tây Nguyên từ giữa tháng 6 đến tháng 11/2023.

Báo cáo của Bộ TN&MT cho thấy, vùng núi phía Bắc và vùng núi ở miền Trung sẽ chịu nhiều rủi ro hơn do lũ quét và trượt lở đất khi chế độ mưa thay đổi, với tần suất và cường độ mưa lớn ngày càng nhiều. Trong khi đó, những vùng chịu rủi ro cao hơn và dễ bị tổn thương hơn do hạn hán và thiếu nước, tăng hoang mạc hoá ở Việt Nam bao gồm: Vùng duyên hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, vùng trung du và khu vực Tây Nguyên. Đối với ĐBSCL, các trận lũ lớn xảy ra vào những năm giữa thế kỷ 21 kết hợp với NBD khoảng 30 cm sẽ làm cho diện tích ngập lụt tăng trên 25% so với diện tích ngập lụt trong trận lũ lịch sử năm 2000, diện tích ngập lũ có thể chiếm gần 90% diện tích tự nhiên ĐBSCL. Ngoài ra, ĐBSCL cũng chịu tác động của sụt lún đất do lún địa chất và khai thác nước ngầm quá mức. Trong vòng 25 năm qua, khu vực này đã sụt lún trung bình khoảng 18 cm. Tốc độ sụt lún đất dao động trong khoảng 1,1-2,5cm/năm, gấp khoảng 10 lần tốc độ nước biển dâng. Theo dự đoán, với tốc độ khai thác nước ngầm như hiện tại, ĐBSCL có thể sụt lún đến 88 cm vào năm 2050. Nhiều vị trí thuộc khu vực ĐBSCL sẽ ngập đến 100 cm vào giữa Thế kỉ 21 do tác động kết hợp giữa sụt lún đất và nước biển dâng.

Lũ lụt tại vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên ảnh hưởng tới ngành nông nghiệp, tài nguyên nước, giao thông vận tải, sức khỏe và đời sống người dân, nơi cư trú. Nhóm đối tượng chịu tác động mạnh chủ yếu là dân cư miền núi, nhất là người dân tộc thiểu số và người già, phụ nữ, trẻ em. Lũ lụt và bão cũng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho các công trình cơ sở hạ tầng, bao gồm cơ sở hạ tầng nông thôn, các công trình kiểm soát phòng chống lụt bão và công trình thủy lợi.

Lũ quét xảy ra ở hầu hết các vùng trên cả nước, tuy nhiên Tây Bắc và Đông Bắc là hai khu vực có số lần xuất hiện lũ quét nhiều nhất. Sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển tại ĐBSCL diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng sạt lở xảy ra ở toàn bộ 13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSCL, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là: An Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang. Theo thống kê, khu vực ĐBSCL có khoảng 562 vị trí bờ sông, bờ biển bị sạt lở, với tổng chiều dài 786 km, trong đó có 42 vị trí sạt lở đặc biệt nguy hiểm với chiều dài 149 km. Tình hình sạt lở không những diễn ra vào mùa mưa, mà còn xuất hiện cả mùa khô và diễn ra ở các tuyến sông chính, cho đến các hệ thống kênh, rạch với mức độ ngày càng nhiều và nguy hiểm.

Tác động của BĐKH đến lũ quét, sạt lở được đánh giá thông qua tác động đến yếu tố mưa đặc biệt lớn. Vùng Tây Bắc, khu vực có nhiều ngày mưa đặc biệt lớn có khả năng gây lũ quét, sạt lở chủ yếu tập trung ở khu vực phía tây bắc của huyện Mường Tè, thị xã Mường Lay, Than Uyên của tỉnh Lai Châu, các huyện Mường La, Phù Yên, Vân Hồ của tỉnh Sơn La, các huyện Sa Pa của tỉnh Lào Cai, thành phố Yên Bái và các huyện Lục Yên, Mù Căng Chải của tỉnh Yên Bái và hầu hết tỉnh Hòa Bình. Đây chính là các khu vực đã từng xảy ra lũ quét, sạt lở đất. Dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra lũ quét, sạt lở ở các khu vực đều tăng lên với phạm vi mở rộng đáng kể, bao gồm toàn bộ các huyện Mường Tè, thị xã Mường Lay, tỉnh Lai Châu, các huyện Than Uyên, Sa Pa, tỉnh Lào Cai, gần như toàn bộ tỉnh Yên Bái, các huyện Mường La, Phù Yên, Vân Hồ, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Mộc Châu, tỉnh Sơn La và toàn bộ tỉnh Hòa Bình. Có thể thấy, trong tương lai dưới tác động của BĐKH, phạm vi xuất hiện lũ quét, sạt lở trên vùng khí hậu Tây Bắc sẽ mở rộng thêm.

Vùng Đông Bắc, dưới tác động của BĐKH, số ngày có khả năng xảy ra lũ quét, sạt lở ở các khu vực đều tăng lên, tuy nhiên, khu vực có nhiều ngày mưa có khả năng sinh lũ quét, sạt lở chỉ mở rộng phần lớn trong tỉnh Hà Giang; một phần các huyện Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, tỉnh Tuyên Quang giáp với tỉnh Hà Giang, một phần các huyện Đại Từ, Phổ Yên của tỉnh Thái Nguyên giáp với tỉnh Vĩnh Phúc, một phần huyện Đình Lập của tỉnh Lạng Sơn giáp với tỉnh Quảng Ninh và gần như toàn bộ tỉnh Quảng Ninh. Vùng đồng bằng Bắc Bộ, số ngày có khả năng xảy ra sạt lở ở các khu vực đều tăng lên với phạm vi mở rộng hơn ở huyện Ba Vì thành phố Hà Nội, các tỉnh Hà Nam, Thái Bình. Phạm vi khu vực có nhiều có khả năng gây sạt lở mở rộng tăng dần qua các thời kỳ trong tương lai. Vùng Bắc Trung Bộ, số ngày có khả năng xảy ra lũ quét, sạt lở ở các khu vực đều tăng lên với phạm vi mở rộng đáng kể, bao gồm các huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, các huyện Quỳ Châu và Con Cuông tỉnh Nghệ An, các khu vực khác của tỉnh Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế...

Thực hiện các giải pháp phòng chống lũ, lũ quét và sạt lở

Để phòng chống lũ, lũ quét, sạt lở đất, phục vụ PCTT, phát triển KT-XH, Bộ TN&MT đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc triển khai theo dõi chặt chẽ tình hình thời tiết, thuỷ văn, hải văn trên phạm vi cả nước; cảnh báo, dự báo kịp thời các hiện tượng thời tiết, thuỷ văn, hải văn nguy hiểm như bão, ATNĐ, mưa lớn, lũ lớn, lũ quét, triều cường, sóng lớn,... Tăng cường ứng dụng công nghệ và công cụ mới nhằm chi tiết hóa và truyền tải các thông tin dự báo, hoàn thiện công cụ, hệ thống dự báo, tăng cường chất lượng dự báo khí tượng thủy văn nói chung, thiên tai khí tượng thủy văn nói riêng và đặc biệt là dự báo mưa định lượng, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình cập nhật phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên quan đến bão, nước dâng do bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn; Chiến lược quốc gia PCTT đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch PCTT quốc gia đến năm 2025; Chương trình trình tổng thể PCTT quốc gia.

Trung tâm Dự báo KTTV quốc gia đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong và ngoài Bộ TN&MT trong quá trình phân tích, đánh giá dự báo, cảnh báo các loại hình thiên tai nguy hiểm như: Xâm nhập mặn, bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất và báo cáo kịp thời gửi Lãnh đạo Bộ và Ban chỉ đạo quốc gia về PCTT. Hiện nay, Trung tâm đã hoàn thành bộ cơ sở dữ liệu về điều kiện tự nhiên,KT-XH tại các tỉnh/thành địa phương chi tiết tới cấp huyện; thống nhất với các Đài KTTV khu vực mẫu và hình thức chia sẻ dữ liệu tự động phục vụ dự báo tác động đối với bão, ATNĐ, lũ, lũ quét và sạt lở đất; đang hoàn thiện phần mềm dự báo, cảnh báo tác động trên cơ sở lồng ghép số liệu điều kiện tự nhiên với thông tin dự báo, cảnh báo đối với bão, ATNĐ, lũ, lũ quét và sạt lở đất và thực hiện nâng cao chất lượng dự báo mưa định lượng.

Thực hiện cảnh báo lũ quét, sạt lở đất khu vực miền núi, trung du trong toàn hệ thống dự báo KTTV quốc gia. Phối hợp các các Đài KTTV khu vực, Đài KTTV tỉnh cập nhật thường xuyên, lưu trữ, chia sẻ dữ liệu về tình hình lũ quét, sạt lở đất phục vụ cảnh báo. Trong một số đợt lũ quét, sạt lở đất lớn, Trung tâm đã chủ động, phối hợp với các đơn vị thực hiện khảo sát, đánh giá nguyên nhân đồng thời tích cực trao đổi với các Đài KTTV thu thập các dữ liệu về hiện trạng, khu vực trọng điểm phục vụ cho công tác cảnh báo lũ quét, sạt lở đất. Trung tâm Dự báo KTTV Quốc gia đã triển khai đồng bộ một số giải pháp khác nhau nhằm tăng cường mức độ chi tiết các Bản tin cảnh báo lũ quét, sạt lở đất. Trong đó trọng tâm là ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại xác định ngưỡng mưa chi tiết hơn; tăng cường độ phân giải dự báo mưa định lượng lên 1-3 km, sử dụng đồng hóa nhiều nguồn dữ liệu tạo bản đồ mưa như dữ liệu quan trắc, radar, mô hình số nhằm xác định khu vực xuất hiện các tâm mưa lớn phục vụ cảnh báo lũ quét, sạt lở đất; tạo bản đồ cảnh báo nguy cơ lũ quét, sạt lở đất trên cơ sở kết hợp các lớp thông tin về ngưỡng mưa, độ ẩm đất,…

HOÀNG NGUYÊN
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường