Triển khai các giải pháp ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu

Thứ hai, 19/6/2023, 12:36 (GMT+7)
logo Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng non trẻ, đặc biệt dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu. Chính vì vậy, thời gian qua, Chính phủ đã ưu tiên tập trung đầu tư cho các hoạt động ứng phó biến đổi khí hậu; các tỉnh, thành trong vùng triển khai nhiều giải pháp nhằm tăng cường khả năng thích ứng, thúc đẩy phát triển theo hướng xanh, bền vững.

Triển khai các giải pháp ứng phó hiệu quả biến đổi khí hậu

Ảnh minh họa

13 tỉnh, thành phố trong vùng đều có nguy cơ ngập

Biến đổi khí hậu tác động tiềm tàng đến khu vực ĐBSCL, đặc biệt là vấn đề sạt lở, sụt lún khiến mất đất đô thị và thiệt hại về tài sản của người dân, đặc biệt ở những khu vực trũng thấp. BĐKH cũng làm gia tăng ngập úng, ô nhiễm hệ thống nước cấp, gia tăng ô nhiễm môi trường do hệ thống thu gom rác thải, nước thải bị gián đoạn. Việt Nam xếp hạng 23/30 quốc gia chịu tác động mạnh từ BĐKH, trong đó, ĐBSCL được cảnh báo là một trong ba vùng đồng bằng bị ngập lụt, mất đất lớn nhất trên thế giới. Dự báo đến cuối thế kỷ XXI, mực nước biển sẽ dâng lên từ 0,5-1 m, kéo theo khoảng 39% diện tích, 35% dân số ĐBSCL chịu ảnh hưởng. Toàn bộ 13 tỉnh, thành phố tại ĐBSCL đều có nguy cơ ngập, trong đó, một số đô thị lớn, trung bình có nguy cơ ngập cao như các TP. Rạch Giá, Hà Tiên (Kiên Giang), Cà Mau (tỉnh Cà Mau), Sóc Trăng (tỉnh Sóc Trăng), Vị Thanh (tỉnh Hậu Giang) và TP. Cần Thơ. Là thủ phủ vùng ĐBSCL, do tác động của BĐKH, thành phố Cần Thơ đã và đang phải đối mặt với các hiểm họa như: Triều cường, sạt lở đất, nắng nóng, bão, lốc xoáy kéo theo những hiểm họa khác như: xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường và dịch bệnh.

Báo cáo của Văn phòng Công tác BĐKH Cần Thơ cho thấy, sạt lở bờ sông là một trong những hiện tượng BĐKH xuất hiện thường xuyên trong những năm gần đây, gây thiệt hại tài sản, sản xuất của người dân. Diễn biến sạt lở bờ sông, kênh rạch trên địa bàn thành phố ngày càng nghiêm trọng, phức tạp, gia tăng cả về cường độ và số lượng. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa diễn ra tương đối mạnh tại TP. Cần Thơ còn làm gia tăng hiện tượng sụt lún mặt đất và công trình ở những khu vực có mật độ xây dựng cao. Đồng thời, việc khai thác nước ngầm phục vụ cấp nước đô thị cũng là nguyên nhân gây sụt lún cục bộ mặt đất. Do đó, những giải pháp ứng phó, hạn chế tác động của BĐKH đến đô thị Cần Thơ là vô cùng cấp thiết.

Nằm ở tận cùng phía Tây Nam của Tổ quốc, địa thế tỉnh Kiên Giang là một hệ thống hở, thấp, chịu tác động của chế độ thủy văn, bởi ba yếu tố: Thủy triều vịnh Thái Lan, chế độ thủy văn của sông Hậu và mưa tại chỗ. Các yếu tố này tạo nên sự phức tạp trong môi trường, đặc biệt là vấn đề xâm nhập mặn từ biển Tây. Theo Sở TN&MT Kiên Giang, tại TP. Rạch Giá nước mặn đã xâm nhập sâu vào đất liền, đẩy nước ngọt trên sông Cái Sắn và kênh Rạch Giá-Hà Tiên ra xa hơn. Các khu vực trồng rau màu dọc theo hai tuyến này đang đứng trước nguy cơ thiếu nước tưới tiêu và phải kết thúc sớm mùa vụ. Khu vực trồng rau ở phường Vĩnh Hiệp, TP. Rạch Giá cũng đang gặp khó khăn về nước tưới vì nước mặn đã xâm nhập đến kênh thủy lợi phía Nam. Riêng TP. Hà Tiên, diện tích lúa vừa thu hoạch ở khu vực biên giới với Campuchia gần như phải phơi đất hoàn toàn vì không còn nước tưới tiêu do hạn và xâm nhập mặn.

Rà soát, đánh giá tình hình tác động

Lãnh đạo Bộ TN&MT cho biết, thời gian qua, Bộ chủ trì xây dựng, định kỳ cập nhật và công bố Kịch bản BĐKH. Kịch bản BĐKH cập nhật được xây dựng dựa trên các công bố mới nhất của Ban liên Chính phủ về BĐKH (IPCC). Nội dung Kịch bản đã sử dụng số liệu quan trắc và số liệu mô hình số độ cao cập nhật đến năm 2020, bổ sung 10 phương án mô hình toàn cầu và 6 mô hình khu vực để dự tính các kịch bản BĐKH và nước biển dâng, nguy cơ ngập do nước biển dâng chi tiết đến các đơn vị hành chính cấp huyện, các đảo và quần đảo của Việt Nam. Bên cạnh đó, năm 2022, Bộ TN&MT công bố Báo cáo đánh giá khí hậu quốc gia với những thông tin cơ bản về đặc điểm, hiện trạng, mức độ thay đổi của khí hậu, khí hậu cực đoan, xu thế và tác động của BĐKH, đánh giá sự phù hợp và mức độ sử dụng kịch bản BĐKH cũng như hiệu quả của các hoạt động ứng phó với BĐKH tại Việt Nam.

Theo Kịch bản BĐKH, nguy cơ ngập do nước biển dâng sẽ có thể gia tăng do cộng hưởng của các yếu tố khác như nâng hạ địa chất, thay đổi địa hình, sụt lún, thuỷ triều, nước dâng do bão. Hiện tượng sụt lún đất đang diễn ra ở khu vực ĐBSCL và TP. Hồ Chí Minh với nền địa hình thấp nhất trên cả nước, do 2 nhóm nguyên nhân chính: Nhóm nguyên nhân tự nhiên như dịch chuyển các mảng kiến tạo, quá trình nén chặt của các lớp trầm tích trẻ, hoạt động tân kiến tạo, quá trình bóc mòn, bồi tụ bề mặt địa hình. Nhóm nguyên nhân do hoạt động con người tác động như khai thác nước ngầm quá mức, quá trình đô thị hoá tăng tải trọng trên nền đất yếu, rung động do các hoạt động giao thông vận tải. Tình trạng sụt lún ở một số khu vực tại TP. Hồ Chí Minh và ĐBSCL diễn ra rất nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân với quy mô khác nhau. Theo số liệu quan trắc của Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam, Bộ TN&MT tại 339 điểm quan trắc ở TP. Hồ Chí Minh và ĐBSCL vào năm 2014, 2015, 2017 so sánh với số liệu đo đạc các mốc đo đạc năm 2005 cho thấy, sụt lún đất xảy ra ở 306 điểm trong khi ở 33 điểm còn lại không xảy ra sụt lún mà có xu thế nâng lên. Theo thống kê, tổng mức sụt lún trung bình trong giai đoạn từ 2005 đến năm 2017 cho toàn vùng là 12,3 cm (từ 3,45 cm đến 23,27 cm). Tốc độ sụt lún trung bình hàng năm cho toàn khu vực trong giai đoạn này là 1,07 cm/năm (từ 0,38 cm đến 1,99 cm/năm).

Triển khai các giải pháp ứng phó hiệu quả

Hiện vùng có tỷ lệ đô thị hóa toàn vùng đạt 31,16%, tăng 4,6% so với năm 2015, khu vực đô thị cũng có sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Theo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được phê duyệt, hệ thống đô thị ĐBSCL sẽ được xây dựng theo hướng phân bố hợp lý tại các vùng đô thị, dọc theo các hành lang phát triển chính của vùng; mô hình đô thị sinh thái, nén.

Theo Bộ TN&MT cho biết, thực hiện hiệu quả các giải pháp ứng phó với BĐKH trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH theo Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH và Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về phương hướng phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh, vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW, Chính phủ đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tại Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 với các nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể như: Tập trung sản xuất nông nghiệp chống chịu, thích ứng với BĐKH; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp hiệu quả cao, tối ưu hoá giá trị nông nghiệp; phát triển công nghệ về giống, công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản, thuỷ sản.

Đồng thời, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, xây dựng mạng lưới đường bộ cao tốc, đường thuỷ nội địa kết nối mạng lưới đô thị vùng; chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với từng vùng sinh thái; chủ động “sống chung với lũ và hạn hán, xâm nhập mặn”, khai thác lợi thế để phát triển bền vững. Cùng với đó là xây dựng chiến lược tổng thể bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công; kiểm soát khai thác nước ngầm và tình trạng sụt lún đất do khai thác nước ngầm; xây dựng hệ thống công trình trữ nước mùa mưa, điều hoà nguồn nước cho mùa khô để giảm thiểu tác động của hạn hán và xâm nhập mặn. Xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống đê biển, đê bao, bờ biển, công trình kiểm soát lũ, mặn, hệ thống thuỷ lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững. Xây dựng, củng cố công trình phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo đảm an toàn cho dân cư và cơ sở hạ tầng; phát triển rừng ngập mặn và các đa dạng sinh học ven biển gắn với bảo đảm đa dạng sinh học và sinh kế bền vững; hoàn thiện chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ; củng cố, nâng cấp công trình kết hợp sơ tán dân phòng chống lũ, bão.

NGUYỄN LINH

Bộ Tài nguyên và Môi trường

Trích nguồn: Tạp chí TN&MT Kỳ 2 tháng 5 năm 2023