
Áp dụng kết quả khoa học - công nghệ trong quản lý, thực tiễn sản xuất
Chúng ta đã triển khai nghiên cứu, thí điểm một số giống lúa, áp dụng các biện pháp kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thích ứng với BĐKH. Chuyển đổi cơ cấu, giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật sản xuất thích ứng với BĐKH được đề ra trong Kế hoạch hành động của ngành nông nghiệp ứng phó với BĐKH giai đoạn 2016-2020. Một số giống lúa thích nghi với điều kiện úng ngập, chịu mặn, chịu phèn,… đã được nghiên cứu, ứng dụng. Xây dựng và ứng dụng bộ bản đồ rủi ro và lập kế hoạch thích ứng với BĐKH (CS-Map) cho 43 tỉnh, thành phố trên cả nước. Kết quả ứng dụng CS-Map ở ĐBSCL cho thấy điều chỉnh lịch xuống giống đã giúp nông dân tránh được các tác động bất lợi của hạn hán, xâm nhập mặn thường diễn ra trong các vụ lúa Đông Xuân. Nhiều biện pháp canh tác thích ứng với BĐKH cũng đã được nghiên cứu, triển khai. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với BĐKH nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng để phát triển ĐBSCL bền vững, thịnh vượng theo hướng tôn trọng quy luật tự nhiên; coi nước mặn, nước lợ là nguồn tài nguyên cho phát triển; xoay trục chiến lược sang thủy sản - trái cây - lúa gạo.
Trong giám sát và quản lý tài nguyên, nghiên cứu ứng dụng công nghệ viễn thám trong giải đoán các thành phần tài nguyên đất ở Việt Nam, xây dựng mô hình giám sát biến động tài nguyên đất cấp tỉnh và xác lập kênh giám sát sử dụng đất chủ động trên cơ sở ứng dụng công nghệ WebGIS. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước (mùa khô) theo thời gian thực và triển khai thí điểm tại Hà Tĩnh. Xây dựng bộ tiêu chí và xác định chỉ số an ninh môi trường. Xây dựng được cơ sở khoa học đánh giá an ninh nguồn nước các lưu vực sông chính ở Việt Nam và bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng nước ở Việt Nam. Nghiên cứu phương pháp lượng giá và quy trình kết chuyển các giá trị tài nguyên và môi trường vào hệ thống tài khoản quốc gia.
Triển khai hiệu quả các chương trình khoa học công nghệ
Nhiều chương trình KHCN quan trọng cấp Nhà nước đã được triển khai thực hiện, hiệu quả: Chương trình KHCN phục vụ trương trình MTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2011-2015, Chương trình đã tuyển chọn và thực hiện 48 đề tài tập trung điều tra, nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng công nghệ thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ phát thải KNK. Chương trình KHCN ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT giai đoạn 2016-2020 thực hiện 38 đề tài với trọng tâm nghiên cứu ứng dụng công cụ, mô hình trong giám sát BĐKH và giảm nhẹ phát thải KNK; giảm thiểu ảnh hưởng của triều cường, ngập lụt, hạn hán, xâm nhập mặn do tác động của BĐKH và nước biển dâng gây ra tại các vùng trọng điểm (ĐBSCL, ven biển miền Trung và ĐBSH); mối quan hệ và lượng giá BĐKH - tài nguyên - môi trường - hệ sinh thái. Chương trình KHCN phục vụ BVMT và phòng tránh thiên tai có 38 đề tài được triển khai với các kết quả chính về BĐKH gồm: Hoàn thiện hệ thống mô hình dự báo định lượng mưa lớn cho khu vực Bắc Bộ Việt Nam; xây dựng hệ thống nghiệp vụ dự báo khí hậu hạn mùa cho Việt Nam bằng các mô hình động lực; bổ sung các phương pháp, công nghệ hiện đại trong nghiên cứu dự báo khí hậu. Chương trình cũng đã góp phần giải quyết những vấn đề quan trọng về thiên tai của các vùng quan trọng, như: ĐBSH: giải quyết về ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến phát triển KT-XH; quy hoạch tổng thể chỉnh trị hệ thống sông; khả năng ứng phó khi xảy ra xả lũ khẩn cấp, lũ cực lớn, lũ do vỡ đập, mưa lớn. Vùng ĐBSCL góp phần đánh giá thực trạng các ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn đến bán đảo Cà Mau; diễn biến nguồn nước, chất lượng nước; biến động nguồn nước thượng lưu, điều kiện khí hậu cực đoan; biến đổi hình thái lòng dẫn, hạ thấp mực nước và dự báo định lượng mưa, mưa lớn cho TP. Hồ Chí Minh và tìm ra các giải pháp; miền Trung và Tây Nguyên: Đề xuất các giải pháp điều hòa, phân bổ nguồn nước liên vùng, liên lưu vực sông; sử dụng hợp lý tài nguyên nước phục vụ phòng chống hạn, đảm bảo an ninh nguồn nước; xói lở, bồi tụ dải bờ biển, cửa sông; rủi ro ngập lũ tại các ngầm tràn.
TS. Tăng Thế Cường Cục trưởng Cục BĐKH cho biết, chúng ta đã xây dựng được 10 mô hình nhà thích ứng với lũ lụt tại tỉnh Thừa Thiên Huế có khả năng nhân rộng ra các địa phương khác. Trong khuôn khổ Dự án của UNDP “Tăng cường khả năng chống chịu với BĐKH của các cộng đồng dễ bị tổn thương ven biển Việt Nam” do Quỹ Khí hậu xanh (GCF) tài trợ có 4.000 nhà mới được xây cho 20.000 người nghèo ở 100 xã tại 7 tỉnh ven biển, gồm: Nam Định, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế và Cà Mau; mô hình làng sinh thái ứng phó với BĐKH tại vùng ĐBSCL, thí điểm ở Cà Mau. Đã nghiên cứu, xây dựng bộ chỉ số và mô hình đô thị ven biển thích ứng với BĐKH, gồm 03 hợp phần: Khả năng chống chịu tự nhiên (11 tiêu chí và 18 chỉ tiêu); Khả năng chống chịu xã hội (104 chỉ tiêu); và khả năng chuyển hóa thách thức thành cơ hội (14 chỉ tiêu). Công nghệ thoát nước đô thị bền vững cũng được triển khai áp dụng; sử dụng cỏ vetiver để chống sạt lở taluy dương ở các tuyến đường giao thông khu vực miền núi; ứng dụng một số công nghệ về vật liệu chịu nắng nóng trong xây dựng đường giao thông thích ứng với BĐKH. Nghiên cứu công nghệ neo trong đất để gia cố đê biển làm nền đường ô tô nhằm nâng cao khả năng ứng phó BĐKH của hệ thống đê biển và đường giao thông ven biển ở ĐBSCL. Đã đề xuất nhóm giải pháp công nghệ chuyển nước mặn thành nước ngọt, các công nghệ thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng tái tạo, tiết kiệm nhiên liệu.
Chương trình KHCN nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng có 23 nhiệm vụ KHCN và 03 dự án sản xuất thử nghiệm được triển khai, tập trung vào: Thiết kế, công nghệ chế tạo và chế tạo hệ thống thiết bị chiếu xạ gama phục vụ nghiên cứu đột biến tạo giống cây trồng trong nông nghiệp; thiết kế, chế tạo hệ thống khắc phục nhanh sự cố tăng, giảm điện áp ngắn hạn cho phụ tải công suất 150KVA; chế tạo động cơ điện tiết kiệm năng lượng; mô phỏng được khả năng phát tán chất phóng xạ từ các nhà máy điện hạt nhân Cảng Phòng Thành và Xương Giang Trung Quốc đến Việt Nam.
Chương trình KHCN quốc gia về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và BVMT đã đạt được nhiều kết quả tích cực; nhiều công nghệ mới thích ứng với BĐKH đã được nghiên cứu, ứng dụng trong xây dựng, giao thông, phát triển vật liệu xây dựng, thoát nước. Các chương trình nghiên cứu KHCN về ứng phó với BĐKH đã được Bộ KH&CN chủ trì, tổ chức triển khai trong thời gian qua. Cụ thể, giai đoạn 2011-2015: Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng; Nghiên cứu KHCN phục vụ phòng tránh thiên tai, BVMT và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; Nghiên cứu KHCN phục vụ quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển. Giai đoạn 2016-2020: Nghiên cứu KHCN phục vụ BVMT và phòng tránh thiên tai; Nghiên cứu KHCN phục vụ quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển,…
Tuy nhiên hiện nay, việc ứng dụng KHCN, các biện pháp canh tác, chuyển đổi cơ cấu, giống cây trồng, vật nuôi thích ứng với BĐKH, nhìn chung, còn hạn chế. Công tác củng cố và xây dựng mới các công trình cấp, thoát nước của các đô thị, khu công nghiệp, nhất là vùng ven biển nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu. Việc di dời, sắp xếp dân cư ra khỏi vùng thường xuyên bị thiên tai; các biện pháp phòng, chống, hạn chế tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng chưa đạt yêu cầu.
Có thể thấy KHCN, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đạt nhiều tiến bộ, tác động ngày càng sâu sắc, đa chiều đến các quốc gia. Chuyển đổi số đang nổi lên là một xu thế mới của thế giới, thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số; làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hoá, xã hội. Thách thức về BĐKH ngày càng gia tăng đe dọa sự tồn vong của Trái đất, trong đó các hoạt động của con người là nguyên nhân chính. BĐKH sẽ tác động mạnh đến sức khỏe, an toàn của con người, đặc biệt là an ninh lương thực và nền kinh tế toàn cầu. Ứng phó với BĐKH là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, của mỗi người dân và toàn xã hội, được thực hiện trên nguyên tắc công lý, công bằng, với cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân. Dựa trên thể chế đồng bộ, chính sách, pháp luật hiệu lực và hiệu quả, KHCN và đổi mới sáng tạo, phát huy nội lực và hợp tác quốc tế; góp phần xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ, tích cực hội nhập.
NGUYỄN HỮU LINH
Cục Biến Đổi khí hậu
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2023