
Tuy nhiên, theo ông, hiệu quả ứng phó không chỉ phụ thuộc vào số lượng trạm hay trang thiết bị hiện đại mà cốt lõi nằm ở con người, quy trình vận hành và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên. Không có sự hỗ trợ tài chính từ Nhà nước, SOS vẫn kiên trì tự chủ, không ngừng đổi mới để đảm bảo khả năng ứng phó linh hoạt và hiệu quả trong mọi tình huống khẩn cấp.
Ông Phạm Văn Sơn - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường
Việt Nam (SOS). (Ảnh: NVCC)
PV: Được biết Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS) đã xây dựng một mạng lưới hơn 100 trạm, điểm trực ứng phó trên phạm vi cả nước. Xuất phát từ thực tiễn nào mà Trung tâm quyết định triển khai hệ thống này?
Ông Phạm Văn Sơn: Ứng cứu sự cố môi trường cũng giống như cứu hỏa, nếu không có trang thiết bị tại chỗ, không có lực lượng ứng phó chuyên nghiệp ở bán kính gần có thể huy động đến hỗ trợ kịp thời thì sự cố nhỏ có thể trở thành thảm họa. Sự cố cháy chỉ gây thiệt hại cho một công trình và có thể một vài công trình xung quanh với thiệt hại tính toán được. Còn sự cố môi trường ngoài những thiệt hại tính toán được còn để lại những hậu quả nghiêm trọng khó lường đối với sức khỏe cộng đồng và môi trường trong dài hạn.
Khi Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam triển khai hoạt động ứng cứu những sự cố đầu tiên, chúng tôi đã thấy việc đảm bảo trang thiết bị vật tư sẵn sàng tại chỗ có vai trò hết sức quan trọng để ứng phó kịp thời, hiệu quả, giảm thiểu hậu quả của sự cố tới mức thấp nhất. Nếu sự cố xảy ra mới huy động nguồn lực thì phải mất nhiều thời gian mới tới được hiện trường, và khi tới nơi thì các chất độc hại đã kịp phát tán ra môi trường. Lúc đó hoặc là chi phí xử lý ô nhiễm và phục hồi môi trường là những khoản tiền khổng lồ, hoặc là đành buông xuôi để cho cộng đồng và môi trường gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng khó lường trong dài hạn. Hiểu rõ tầm quan trọng như vậy nên tôi đã dành tâm huyết triển khai kế hoạch thiết lập mạng lưới các trạm trực ứng phó sự cố môi trường trên phạm vi cả nước từ rất nhiều năm trước.
Trạm trực ứng phó sự cố môi trường số 43-05 tại Liên Chiểu, TP. Đà Nẵng. (Ảnh: NVCC)
PV: Thưa ông, khi thiết lập mạng lưới rộng khắp như vậy, những yếu tố nào được xem xét để đảm bảo mỗi trạm có thể hoạt động hiệu quả, đáp ứng kịp thời các sự cố môi trường tại khu vực phụ trách?
Ông Phạm Văn Sơn: Có 3 yếu tố cần xem xét khi thiết lập các trạm ứng phó sự cố môi trường tại cơ sở nói riêng và khu vực nói chung.
Thứ nhất là cần nhận diện đầy đủ các rủi ro sự cố có thể xảy ra tại từng cơ sở. Nhận diện rủi ro ở đây không chỉ liên quan các sự cố có thể xảy ra do hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà theo văn bản qui định hiện hành bị tách riêng biệt ra thành sự cố tràn dầu, sự cố hóa chất, sự cố chất thải, sự cố môi trường, mà còn gồm các sự cố chưa xác định được là sự cố gì, sự cố hỗn hợp. Nhận diện rủi ro còn liên quan đến thực trạng năng lực quản lý rủi ro của cơ sở.
Tiếp theo là từ nhận diện rủi ro một cách đầy đủ và chuyên sâu tại từng cơ sở và nhiều cơ sở, chúng tôi xác định những trang thiết bị vật tư nào cần bố trí sẵn sàng tại cơ sở nào, những trang thiết bị vật tư nào cần bố trí tại các trạm cấp địa phương và cấp khu vực để kịp thời huy động khi cần thiết. Nói tóm lại, việc này được thực hiện bằng sự hiểu biết tường tận về nhận diện nguy cơ và xác định trang bị ứng phó phù hợp từng cấp tại từng khu vực cụ thể.
Thứ ba là sự quan tâm của các địa phương và các cơ sở tiềm ẩn nguy cơ gây sự cố. Tại địa phương đã có nhiều sự cố xảy ra thì các cơ sở có nguy cơ dành nhiều sự quan tâm hơn, đặc biệt là các cơ sở đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề do để xảy ra sự cố. Nếu các cơ sở và địa phương hiểu rõ tầm quan trọng của việc đảm bảo năng lực ứng phó thực tế và thực chất thì việc thiết lập các trạm trực ứng phó mới được quan tâm đúng mức.
PV: Việc duy trì và vận hành một hệ thống rộng lớn như vậy chắc hẳn không tránh khỏi những thách thức. Trung tâm đã gặp phải những khó khăn nào trong việc duy trì và vận hành hệ thống trạm ứng phó sự cố môi trường?
Ông Phạm Văn Sơn: Khó khăn lớn nhất là SOS không nhận được sự hỗ trợ tài chính từ Nhà nước mà phải tự đảm bảo lương và các chế độ chính sách cho đội ngũ ứng phó chuyên nghiệp thường trực tại các địa phương. Ngoài ra, SOS còn phải tự đầu tư nhiều trang bị tại các trạm và chịu chi phí bảo dưỡng định kỳ để đảm bảo thiết bị luôn sẵn sàng huy động 24/7 khi có sự cố.
Điều tiếp theo không hẳn là khó khăn mà có thể là nỗi trăn trở nhiều năm qua của tôi. Hoạt động ứng phó sự cố môi trường tiềm ẩn rủi ro liên quan đến sức khỏe và thậm trí cả tính mạng con người. Tôi luôn biết ơn các thành viên đồng hành cùng Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam không hẳn vì lương, vì mức lương mọi người nhận ở Trung tâm chưa phải là cao trong khi công việc trực ứng phó sự cố vất vả, áp lực, hoạt động ứng cứu sự cố nguy hiểm. Hoạt động ứng phó sự cố không thể hiểu là hoạt động kinh doanh để thu lợi nhuận, và cái gọi là “thu lợi nhuận” đối với Trung tâm SOS chính là thu lại các chất độc hại mà nếu không ứng phó kịp thời sẽ gây ra hậu quả khôn lường trong dài hạn. Thu được càng nhiều các chất độc hại không cho chúng cơ hội thoát ra môi trường nghĩa là thu được “lợi nhuận khủng”. Với tinh thần trách nhiệm cao cả, những người lính áo vàng của Trung tâm SOS luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ bất kể ngày hay đêm. Dù trong khoảnh khắc sum vầy ngày Tết, họ vẫn gác lại giây phút riêng tư, lên đường ứng cứu khẩn cấp khi chưa kịp thắp nén hương trọn vẹn trên ban thờ gia tiên. Ý nghĩa của nhiệm vụ, hoạt động tại Trung tâm SOS là thế, nhưng nếu xảy ra rủi ro trong hoạt động cứu môi trường thì họ không được hưởng các chính sách của Nhà nước như những người lính hóa học, công binh,… trong quân đội.
Lực lượng SOS triển khai hoạt động ứng phó sự cố cháy bồn chứa axít tại kho cảng (Ảnh: NVCC)
PV: Qua từng tình huống thực tế, ông nhận thấy những đổi mới và cải thiện nào giúp trạm ứng cứu hoạt động hiệu quả hơn theo thời gian?
Ông Phạm Văn Sơn: Hoạt động xử lý các sự cố khá thường xuyên đã cho chúng tôi những bài học kinh nghiệm thực tiễn vô cùng quí giá để triển khai các hoạt động nghiên cứu, chế tạo, áp dụng, cải tiến, nâng cấp các trang bị ứng phó sự cố. Đây là thế mạnh đặc biệt của Trung tâm SOS khi là đơn vị đồng thời thực hiện 3 hoạt động thành một vòng khép kín: Ứng cứu sự cố - Nghiên cứu phát triển trang bị – Sản xuất trang bị cho hoạt động ứng cứu.
PV: Qua những chuyến trao đổi với bạn bè quốc tế, ông đã thu nạp được những góc nhìn và chiến lược nào để nâng cao khả năng ứng phó sự cố môi trường tại Việt Nam?
Ông Phạm Văn Sơn: Khi tham gia các hội thảo quốc tế, tôi thấy tự tin hơn với các giải pháp và trang bị ứng phó sự cố do chúng tôi làm chủ công nghệ có tính cơ động cao, gọn nhẹ, vận hành đơn giản nhưng tính năng rất ưu việt và chi phí đầu tư ít tốn kém. Lúc đầu, tôi khá tự ti vì thấy các trang bị của nước ngoài rất hiện đại, rất đắt tiền, kích thước lớn và nặng, vận hành phức tạp. Nhưng đó lại chính là điểm không phù hợp với điều kiện kinh tế và đặc thù sự cố tại Việt Nam. Tôi rất bất ngờ khi các giải pháp và trang bị của chúng tôi lại được các đối tác nước ngoài đánh giá cao. Điều đó chứng tỏ rằng các nước phát triển có điều kiện kinh tế vẫn quan tâm tới hiệu quả thực tế cao nhưng với chi phí thấp, chứ không muốn “ném tiền qua cửa sổ”. Chúng ta với điều kiện kinh tế chưa cao như các nước phát triển lại càng không thể nén tiềm qua cửa sổ.
Ông Phạm Văn Sơn chia sẻ kinh nghiệm ứng phó sự cố môi trường tại Hội nghị CAFEO42 – MALAYSIA. (Ảnh: NVCC)
PV: Vậy sau quá trình tìm hiểu và đúc kết kinh nghiệm, ông đã rút ra những bài học gì trong việc ứng dụng các phương pháp tiên tiến vào hệ thống trạm ứng phó tại Việt Nam?
Ông Phạm Văn Sơn: Tôi không muốn nói nhiều hơn nữa về hệ thống các trạm ứng phó sự cố của Trung tâm SOS bởi đó thuần túy là việc đầu tư cơ sở hạ tầng và các trang bị đặt bên trong. Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam không bao giờ cảm thấy mệt mỏi trong việc miệt mài tổ chức các khóa tập huấn nâng cao nhận thức về hiểm họa của sự cố môi trường kèm theo các giải pháp công nghệ phòng ngừa ứng phó sự cố mà chúng tôi đã dành nhiều công sức và đầu tư để có được thành công thể hiện qua hơn 300 sự cố mà chúng tôi đã xử lý. Tôi chỉ mong muốn công tác bảo vệ môi trường nói chung, phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường nói riêng phải bắt đầu từ nhận thức để biến thành hành động cụ thể, thực tiễn và hiệu quả chứ không phải thể hiện trong các kế hoạch được phê duyệt. Và chúng tôi luôn sẵn sàng đồng hành với các cơ sở, các địa phương trong mọi hành trình ý nghĩa để bảo vệ môi trường sống của chúng ta.
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
Khánh Huyền - Thu Hường (thực hiện)