Truyền thông trong lĩnh vực khí tượng thủy văn phục vụ công tác phòng chống thiên tai

Thứ hai, 10/7/2023, 08:51 (GMT+7)
logo Thiên tai có nguồn gốc từ thời tiết, thủy văn ngày càng gia tăng, để giảm bớt những thiệt hại do thiên tai gây ra, những hệ thống cảnh báo sớm về thiên tai đã được thiết lập ở mọi cấp độ, từ phạm vi địa phương đến phạm vi toàn cầu. Kinh nghiệm cho thấy rằng các cảnh báo sớm về thiên tai và công tác thông tin, truyền thông trong công tác này là một thành phần rất hiệu quả trong công tác quản lý và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai xảy ra.

Truyền thông trong lĩnh vực khí tượng thủy văn phục vụ công tác phòng chống thiên tai

Công tác truyền thông trong cảnh báo thiên tai

Ở nước ta, thiên tai xảy ra bất thường, cực đoan, trái quy luật ngay từ những tháng đầu năm và trên các vùng miền cả nước với 21/22 loại hình thiên tai (trừ sóng thần) trong đó có 1.072 trận thiên tai đã được thống kê. Thiên tai năm 2022 đã làm 175 người chết, mất tích, thiệt hại về kinh tế gần 19.500 tỷ đồng (gấp 1,6 lần thiệt hại về người và 3,4 lần thiệt hại về kinh tế so với năm 2021). Từ đầu năm 2023 đến nay, đã xảy ra 15 đợt mưa dông trên diện rộng, 12 vụ sạt lở bờ sông, 78 trận động đất, 02 đợt rét hại và 12 đợt gió mạnh, sóng lớn trên biển. Đáng lưu ý là: Từ tháng 3 đến đầu tháng 6/2023, trên cả nước đã xảy ra nhiều ngày nắng nóng diện rộng. Trong đó, đợt nắng nóng gay gắt và đặc biệt gay gắt diện rộng từ 04-07/5/2023, nhiều nơi đã xuất hiện các giá trị vượt giá trị nhiệt độ cao nhất lịch sử (GTLS) quan trắc cùng thời kỳ; đặc biệt, giá trị nhiệt độ cao nhất tuyệt đối tại Tương Dương (Nghệ An) 44,20C vào ngày 07/5/2023 được đánh giá là giá trị nhiệt độ ngày cao nhất trên cả nước đã từng được quan trắc (giá trị cao nhất trên cả nước cũ là 43,40C tại Hương Khê (Hà Tĩnh) xảy ra vào tháng 4/2019). Thiên tai đã làm 07 người mất tích, thiệt hại kinh tế gần 25 tỷ đồng.

Theo báo cáo đánh giá của Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai trong cho thấy, công tác dự báo cảnh báo đã thực hiện dự báo thời tiết, thuỷ văn chi tiết đến các huyện, thị xã trên cả nước; cung cấp kịp thời các bản tin dự báo KTTV, cảnh báo về các hiện tượng thời tiết nguy hiểm phục vụ công tác chỉ đạo phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai và chủ động kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Ngoài hệ thống mạng lưới trạm quan trắc cơ bản trong hệ thống trạm KTTV quốc gia do Tổng cục KTTV quản lý, vận hành, các địa phương, bộ, ngành đã tổ chức lắp đặt bổ sung các trạm đo mưa tự động, trạm quan trắc chuyên ngành phục vụ thiết thực cho công tác dự báo, cảnh báo thiên tai (tổng số trạm chuyên dùng đến tháng 3/2023 là 2.466 trạm).

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhưng chúng ta vẫn không thể kiểm soát được các tác động của thiên tai có nguồn gốc KTTV. Cho dù các hoạt động dự báo, cảnh báo thiên tai đúng và kịp thời thì ở một mức độ nào đó vẫn có những thiệt hại không thể tránh khỏi. Công tác dự báo, cảnh báo chỉ góp phần làm giảm nhẹ bớt những hậu quả mà thiên tai gây ra. Cũng cần nhận thấy rằng khi có cảnh báo sớm thì không có nghĩa chắc chắn 100% sẽ có thiên tai xảy ra đúng như cảnh báo. Độ chính xác của các cảnh báo còn tùy thuộc vào hiện tượng được cảnh báo và trình độ công nghệ của cơ quan đưa ra cảnh báo.

Bản tin cảnh báo thiên tai thành công khi các cơ quan liên quan đến quản lý thiên tai và người dân ở vùng thiên tai phải: Nhận được bản tin cảnh báo, dự báo kịp thời và hiểu được nội dung cơ bản của bản tin; tin rằng cảnh báo là có khả năng xảy ra thực sự để có biện pháp chủ động ứng phó; các thông tin dự báo, cảnh báo phải được chuyển tải thông qua nhiều kênh thông tin: từ văn bản hành chính, fax, điện báo, tin nhắn; hệ thông tin công cộng, các kênh truyền thông chính thống; hệ thống thông tin chuyên dùng... để khẳng định tính xác thực của thông tin dự báo, cảnh báo; qua đó chia sẻ với cộng đồng xã hội, các đơn vị chức năng đồng thời tiếp nhận, phản ứng với thông tin dự báo, cảnh báo; quyết định hành động đúng và kịp thời trước và trong khi thiên tai xảy ra.

Người dân sẽ có hành động ứng phó khi và chỉ khi cá nhân họ cảm thấy chính họ có nguy cơ ảnh hưởng bởi thiên tai. Vì vậy, những cơ quan quản lý nhà nước về thiên tai, chính quyền địa phương, cơ quan thông tin đại chúng có những giải thích kỹ hơn cho dân chúng hiểu: Có các thông báo hoặc chỉ dẫn về thiên tai ở các địa điểm công cộng chẳng hạn như trường học, đường giao thông, chợ, công sở,… Thông tin chi tiết về mối đe dọa từ thiên tai; thông tin tác động/hậu quả nếu thiên tai xảy ra; thông tin về mức độ khả năng sẽ xảy ra thiên tai. Các hành động đặc biệt đối với cộng đồng, dân chúng để mỗi người có hành động ứng phó riêng.

Tại hầu hết các nước trên thế giới, cơ quan KTTV sẽ đảm nhận việc sản xuất toàn bộ các chương trình dự báo, cảnh báo thiên tai trên đài truyền hình, đài phát thanh, website,… Cơ quan KTTV Quốc gia là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm làm bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai KTTV để thông báo tới các phương tiện thông tin đại chúng. Các tổ chức dự báo KTTV khác (các công ty tư nhân, các đơn vị hoạt động phi lợi nhuận,…) phải phát đúng các bản tin cảnh báo của cơ quan KTTV quốc gia. Đặc biệt phải sử dụng các bản tin dự báo, cảnh báo mới nhất. Điều này sẽ tránh được việc có quá nhiều cảnh báo khác nhau đối với cộng đồng. Những thông tin dự báo, cảnh báo gần với thời gian hiện tại nhất sẽ là các thông tin có giá trị pháp lý cao nhất.

Hệ thống cảnh báo thiên tai quốc gia Mỹ cho phép Cơ quan Khí tượng quốc gia có quyền truy cập vào sóng của các đài truyền hình, đài phát thành để phát các bản tin cảnh báo thiên tai tới cộng đồng. Khi hệ thống cảnh báo hoạt động, bằng việc sử dụng các các mã tín hiệu riêng, các chương trình đang phát trên đài và ti vi sẽ tự động dừng lại và thay vào đó sẽ phát bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai (thời lượng của các bản tin cảnh báo này chỉ dưới 2 phút). Nhiều đài truyền hình vẫn tiếp tục cho hiện biểu tượng hoặc chạy chữ bản tin cảnh báo thiên tai sau khi phát bản tin thiên tai chính thức.

Các kênh truyền tin dự báo, cảnh báo thiên tai

Cơ quan dự báo KTTV luôn sử dụng tất cả các công nghệ đưa tin tốt nhất để truyền tải bản tin dự báo, cảnh báo đến các nhà quản lý và dân chúng. Các kênh để truyền thông tin dự báo, cảnh báo đạt yêu cầu: Kịp thời; đáng tin cậy, có dự phòng, dễ truy cập, phản hồi được, có tính pháp nhân/chức năng nhiệm vụ rõ ràng. Hệ thống truyền thông cấp quốc gia và cấp khu vực phải được xác định và thích hợp với từng địa phương. Cần sử dụng đa dạng các kênh thông tin để đảm bảo dân chúng tiếp nhận được các cảnh báo, tránh tình trạng bị rớt, tắc nghẽn, gián đoạn bất kỳ kênh thông tin nào.

Các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai của Ngành KTTV Việt Nam được phát cùng lúc trên tất cả các loại hình truyền tin: hệ thống tin công cộng (các kênh viễn thông, truyền hình, báo đài,...); hệ thống thông tin chuyên dùng (của hệ thống phòng chống thiên tai các cấp, các bộ, ngành, đơn vị); mạng lưới thông tin KTTV chuyên ngành (từ trung ương đến địa phương theo quy định của ngành KTTV). Thông tin được sử dụng bao gồm: các bản tin dự báo, cảnh báo do cơ quan dự báo KTTV phát hành trên các web site chuyên ngành, các bản fax, tin nhắn viễn thông. Các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai được các phương tiện truyền thông đại chúng khai thác và sử dụng phải đưa đầy đủ, chính xác nội dung thông tin dự báo, cảnh báo; phải chạy hàng chữ trên màn hình, tóm tắt những nội dung cơ bản của bản tin, biểu tượng cảnh báo (trong chương trình truyền hình). Ngoài ra mạng lưới vô tuyến điện (hệ thống Đài thông tin duyên hải, ICOM). Internet (Email,Website...), Fax, điện thoại (điện thoại bàn/di động), các báo viết (Các báo giấy và các trang báo điện tử), hệ thống tin nhắn định danh qua điện thoại di động (SMS) hoặc zalo OA,…

Một số lưu ý trong truyền thông cảnh báo thiên tai

Truyền thông về dự báo, cảnh báo thiên tai là một quá trình đưa thông tin từ trên xuống dưới. Các nhà kỹ thuật làm bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai cung cấp cho các cấp quản lý, ra quyết định, phát trên các phương tiện truyền thông rồi tới tất cả mọi người trong xã hội. Thông tin cảnh báo sẽ qua nhiều bước trung gian để tới người dân. Vì vậy, khó có thể đảm bảo tính trọn vẹn tuyệt đối nội dung tin dự báo, cảnh báo trong quá trình đưa tin. Do đó có một số nguyên tắc khi truyền tin dự báo, cảnh báo thiên tai như sau: Giữ đúng nguyên văn thông tin dự báo, cảnh báo, tránh bình luận làm tăng thêm hoặc giảm nhẹ nội dung cảnh báo (giới truyền thông thường có xu hướng bỏ sót các cảnh báo nhỏ - khi khả năng xuất hiện thiên tai chưa rõ ràng; hoặc trầm trọng hóa các bản tin cảnh báo - khi mà thiên tai đã và đang xảy ra). Nêu rõ thời điểm phát hành bản tin cảnh báo, và thời điểm sẽ phát hành bản tin cảnh báo tiếp theo. Truyền thông về dự báo, cảnh báo thiên tai cần hướng đến các đối tượng người sử dụng (ví dụ giới tính, trình độ học vấn, vùng miền,…). Phải có tuyên truyền nâng cao nhận thức trước/trong mùa mưa bão, lũ (ví dụ các bộ phim hình ảnh, các tiểu phẩm truyền thanh về tuyên truyền, giáo dục trong nhà trường, hoặc các hình thức tuyên truyền không chính thức khác như: mạng xã hội, tin nhắn định danh, tin nhắn viễn thông,...).

Có kênh/hệ thống đưa tin dự báo, cảnh báo một cách cố định, chính thống đối với dự báo, cảnh báo thiên tai (ví dụ bản tin dự báo, cảnh báo bão chắc chắn sẽ được phát trên VTV1 trong mục dự báo thời tiết sau chương trình thời sự trên đài truyền hình, trường hợp thiên tai nguy hiểm, thông tin dự báo, cảnh báo sẽ lên đầu các chương trình, bản tin thời sự. Các bản tin dự báo thời tiết sau tin thời sự trên VOV, mục/cột trong báo viết, mục tin nóng trên báo điện tử về dự báo thời tiết, thông tin thiên tai,…). Trong môi trường phát triển internet sớm và mạnh mẽ, mạng xã hội ở Việt Nam luôn được đánh giá là một trong số các quốc gia sếp trong số các quốc gia đứng đầu trên thế giới về người dùng mạng xã hội. Tuy nhiên, trình độ hiểu biết về dự báo, cảnh báo thiên tai KTTV và các cách phòng chống của đông đảo nhân dân chưa cao. Trong khi truyền thông cảnh báo thiên tai ở Việt Nam chưa có đủ tiềm lực tài chính để tập trung cho tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng, đồng thời chưa tập trung nhiều vào việc hướng dẫn người dân có các phản ứng thích hợp khi có cảnh báo thiên tai/hoặc khi thiên tai xảy ra như hiện nay thì việc tìm một hướng tuyên truyền hiệu quả nhất đó chính là hướng vào thay đổi hành vi cho người tiếp cận thông tin dự báo, cảnh báo thiên tai. Cơ quan ban hành bản tin và cơ quan truyền thông phải là một khối thống nhất liên hoàn. Tập trung cho truyền thông thay đổi hành vi: Trước mắt là cần truyền thông về việc hiểu tầm quan trọng của thông tin dự báo, cảnh báo thiên tai; xác định những thông điệp quan trọng trong một bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai; xác định những tác động có thể gây ra đối với khu vực, địa bàn cảnh báo từ đó giảm thiểu rủi ro do thiên tai.

Với sự bất thường của nhiều hiện tượng thiên tai có nguồn gốc KTTV, trong nhiều trường hợp khoa học dự báo, cảnh báo thiên tai KTTV chưa thể dự báo chi tiết và đảm bảo tính chính xác cụ thể ở đâu và vào thời điểm nào (ví dụ hiện tượng lốc tố, dông, sét, lũ quét, sạt lở đất,…). Trong những trường hợp này các cơ quan truyền thông cần có quan điểm tích cực, hiểu đúng bản chất của vấn đề để truyền đạt thông tin một cách chính xác phù hợp với khả năng của khoa học dự báo.

Với vị trí nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nơi có sự giao tranh giữa các hệ thống thời tiết hết sức phức tạp, chúng ta hàng năm phải gánh chịu rất nhiều thiên tai như bão lớn, lũ lụt,… Thiên tai không chỉ gây ra từ các hệ thống thời tiết qui mô lớn mà còn phát sinh từ các hệ thống thời tiết qui mô nhỏ, vừa đặc thù của vùng nhiệt đới. Những hệ thống thời tiết này đang đòi hỏi phải có những nghiên cứu khảo sát hết sức khoa học mới có thể dự báo và cảnh báo được. Chính vì vậy, năng lực cảnh báo đối với các thiên tai cũng còn hạn chế đối với một số trường hợp như lũ quét, tố lốc, dông sét,… Đây không chỉ là khó khăn của cơ quan khí tượng Việt Nam mà còn là khó khăn của rất nhiều nước phát triển như: Mỹ, Nhật là các quốc gia hàng đầu về khoa học công nghệ.

Sự phức tạp của hệ thống thời tiết kết hợp với đặc thù về mặt địa lý đã dẫn đến các hậu quả hết sức khác nhau của thiên tai đối với các vùng miền và đặc biệt là phạm vi hẹp. Hiểu biết các bản tin dự báo, cảnh báo, nhận thức được mối nguy hiểm trong bản tin dự báo, cảnh báo cũng là một khó khăn đối với cộng đồng. Ngay như xoáy thuận nhiệt đới được Tổ chức Khí tượng thế giới phân loại theo sức gió mạnh nhất và mức độ ảnh hưởng thành: áp thấp; áp thấp nhiệt đới; bão; bão mạnh,… Trên thực tế ở Việt Nam nhiều khi chỉ một vùng áp thấp đã có thể gây ra một đợt mưa lớn đến vài trăm mm. Tại miền Bắc, tác động của không khí lạnh cũng rất khác nhau đối với từng địa phương, và từng thời gian trong năm. Không phải đợt không khí lạnh nào cũng gây ra dông lốc, gây ra biển động mạnh trên vịnh Bắc Bộ và không phải đợt nào cũng có rét đậm, rét hại. Từ đó chúng ta thấy, cần phải có sự cảnh báo cụ thể cho từng địa phương và cần phải có sự hiểu biết nhất định của cộng đồng đối với nội dung mỗi cảnh báo. Có những hiện tượng thiên tai rất ít khi xảy ra tại một vùng, miền nào đó, ví dụ như: Cơn bão Linda năm 1997, khi đổ bộ vào khu vực Nam Bộ là hiện tượng rất hiếm khi xảy ra trên khu vực nên người dân đã chủ quan trong công tác ứng phó, dẫn đến hậu quả thiệt hại vô cùng nặng nề về người và tài sản. Đây là bài học của không chỉ người dân khu vực Nam Bộ mà tất cả các nơi khác trên cả nước, cần hết sức cảnh giác ngay cả với các hiện tượng thời tiết, thủy văn hiếm gặp để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra. Ngoài ra, cộng đồng có hiểu rõ nội dung cảnh báo và nhận thức được mức độ ảnh hưởng đến với mình thì mới có thể thúc đẩy họ có những hành động ứng phó thích hợp.

Có thể thấy, thiệt hại của thiên tai phụ thuộc vào chính mức độ nguy hiểm của thiên tai, phụ thuộc vào tính kịp thời, cụ thể của bản tin cảnh báo được đưa ra bởi các cơ quan chức năng và cuối cùng chính là sự đối phó khẩn trương của từng địa phương đối với các thiên tai đó. Để giảm thiểu thiệt hại do thiên tai thời tiết cần có sự phối hợp đồng bộ giữa: Cơ quan KTTV, Ban chỉ đạo phòng chống thiên tai từ Trung ương tới địa phương và các cơ quan thông tấn báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng và sự tham gia của cộng đồng xã hội.

TS. HOÀNG ĐỨC CƯỜNG

Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Khí tượng Thủy văn

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 11+12 năm 2023